1. Thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở tỉnh Thừa Thiên Huế, giai đoạn 1 (2022 - 2025)        2. Quy định mức thu giá dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục ngoài học phí đáp ứng nhu cầu người học của cơ cở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (Hoàn thành)        3. Phát triển giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Hoàn thành)        4. Đề án “Xây dựng trường trung học phổ thông chuyên Quốc học - Huế trở thành điểm sáng về chất lượng giáo dục trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của cả nước” (Hoàn thành)        5. Quy định mức thu học phí của cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập đối với chương trình đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm học 2023 – 2024 (Hoàn thành)        6. Quy định mức chi công tác tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông; kỳ thi tuyển sinh đầu cấp phổ thông; thi học sinh giỏi các cấp các môn văn hoá; thi chọn học sinh cấp quốc gia và tập huấn học sinh giỏi để dự thi cấp quốc gia; các kỳ thi tập trung cấp tỉnh (Hoàn thành)        7. Đề án "Xây dựng Trường THCS Nguyễn Tri Phương trở thành trường trọng điểm, chất lượng cao        8. Quy định mức thu học phí của các cơ sở đào tạo trung cấp, cao đẳng công lập đối với chương trình đào tạo đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm học 2022-2023 trở đi        9. Xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến 2045        10. Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế        11. Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2020 – 2025        12. Đề án hỗ trợ phát triển Giáo dục người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030        13. Nâng cao chế độ dinh dưỡng phát triển thể lực, tầm vóc trẻ em dành cho học sinh mầm non và tiểu học.       

Sông Hương

NHÀ VĂN HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
VỚI SÔNG HƯƠNG

MAI VĂN HOAN

Sông Hương như một cô gái đẹp được nhiều người say mê. Một trong những người tình tri kỷ và thuỷ chung với sông Hương chính là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Anh từng gắn bó với dòng sông đã hơn bốn mươi năm nay. Càng ngày nhà văn càng khám phá thêm những vẻ đẹp hết sức quyến rũ của người yêu. Đó là vẻ đẹp thơ mộng và lãng mạn, trầm mặc và huyền ảo, mãnh liệt và dịu dàng... Có thể xem thiên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông là "tiếng lòng" của nhà văn dâng tặng người tình mà nhà văn yêu một cách mê say, đắm đuối. "Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế" (Phạm Xuân Nguyên).

Trong suốt thiên bút ký này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường khi thì so sánh sông Hương với cô gái di-gan, với Kiều; khi thì nhân cách hoá sông Hương : "dịu dàng và trí tuệ", "nằm ngủ mơ màng"... Sông Hương qua ngòi bút thấm đẫm chất thơ, chất trữ tình của nhà văn đã hoá thành một thiếu nữ Huế đa tài, đa tình, đa cảm... Hoàng Phủ yêu sông Hương chẳng khác gì Nguyễn Du yêu nàng Kiều "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu". Nhiều người mê sông Hương, mê nàng Kiều ở "vẻ mặt kinh thành", ở "làn thu thuỷ nét xuân sơn", còn Nguyễn Du và Hoàng Phủ chủ yếu đi tìm vẻ đẹp bên trong đầy bí ẩn của người tình. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường: Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng. Có thể khẳng định cả Nguyễn Du lẫn Hoàng Phủ đã tìm được chiếc chìa khoá vạn năng để khám phá "tâm hồn sâu thẳm" của hai người đẹp.
"Trăm năm tính cuộc vuông tròn - Phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông" (Nguyễn Du). Hoàng Phủ vì yêu sông Hương nên đã lặn lội, trèo đèo, vượt suối lần đến ngọn nguồn dòng sông để tìm hiểu, quan sát và nhà văn ngạc nhiên bắt gặp người tình của mình vào cái tuổi " xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê" không giống như nàng Kiều "âm thầm trướng rũ, màn che" mà là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại. Đây là bí ẩn đầu tiên của dòng sông được nhà văn khám phá. Hai nét tính cách đối lập của sông Hương: dịu dàng và mãnh liệt đã hình thành "giữa lòng Trường Sơn", "dưới bóng cây đại ngàn" như thế nhưng đã mấy ai biết ? Trong hai nét tính cách ấy thì nét dịu dàng của sông Hương chỉ được nhà văn tập trung làm nổi bật ở vóc dáng mềm mại và bước đi khoan thai, nhẹ nhàng của "nàng" : vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Và: sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tác giả còn đặc tả qua hình ảnh dòng sông  như một cô gái đẹp "nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại". Nét dịu dàng chỉ cần nhìn ngắm là có thể nhận ra nhưng tính cách mãnh liệt của dòng sông thì đòi hỏi phải có sự am hiểu thật tường tận về lịch sử và văn học mới phát hiện được. Nhà văn ngược dòng quá khứ và hình dung sông Hương: đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỷ trung đại. Thế kỷ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển… Tính cách mãnh liệt ấy của sông Hương "chợt nhiên hùng tráng lên như kiếm dựng trời xanh trong khí phách của Cao Bá Quát". Hai nét tính cách ấy của sông Hương rất giống nàng Kiều của Nguyễn Du. Kiều vừa "e lệ nép vào dưới hoa" nhưng cũng liều lĩnh "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình". Giữa hai người đẹp này còn có một nét giống nhau nữa là rất đa tình, đa cảm. Vừa mới gặp Kim Trọng lần đầu, Kiều đã "ngổn ngang trăm mối bên lòng". Chỉ nghe Vương Quan kể sơ qua về cuộc đời bạc mệnh của nàng Đạm Tiên, Kiều đã "đầm đầm châu sa"…Diễn tả sự đa tình đa cảm của con người dẫu sao còn dễ, diễn tả sự đa tình đa cảm của dòng sông mới khó. Nhịp đập của trái tim có thể nghe được nhưng làm sao có thể nghe được nhịp đập của dòng sông? Phải nhạy cảm và tinh tế đến mức nào, phải thấu hiểu sông Hương đến mức nào Hoàng Phủ Ngọc Tường mới diễn tả được nỗi lòng thầm kín của sông Hương với thành phố Huế thân yêu một cách lãng mạn và tài tình đến như thế. Nhà văn so sánh cặp tình nhân này với cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và cả hai cùng gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở. Chỉ qua một khúc quanh, một đường cong từ Cồn Giã Viên, sang đến Cồn Hến nhà văn có thể lắng nghe : như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu... Theo Hoàng Phủ thì còn có thể cảm nhận điều đó bằng thị giác với : trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng. Sông Hương chia tay với thành phố Huế chẳng khác gì nàng Kiều chia tay với chàng Kim : ở ngã rẽ sông này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: "Còn non- còn nước- còn dài- còn về, còn nhớ...." Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Một sự liên tưởng hết sức bất ngờ mà nếu không thấu hiểu sự đa tình đa cảm của sông Hương, của những người con gái Huế và ngọn nguồn sâu xa của văn hoá Huế không thể nào diễn tả được. Tương tự như thế nếu không am hiểu những nét đặc sắc của văn hoá Huế, nhà văn cũng không thể có cách lý giải khá độc đáo về nguồn gốc âm nhạc cổ điển Huế. Theo nhà văn thì toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế : đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn phát hiện vẻ đẹp trầm mặc "như triết lý, như cổ thi" của sông Hương khi trôi "giữa hai dãy đồi sừng sững", "những điểm cao đột khởi", "những rừng thông u tịch", "những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu". Cùng với vẻ đẹp trầm mặc là vẻ đẹp biến ảo "sáng xanh, trưa vàng, chiều tím", vẻ đẹp sương khói và huyền bí: vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được…Có thể nói với thiên bút ký tâm huyết này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khái quát khá đầy đủ vẻ đẹp thiên nhiên Huế, văn hoá Huế, con người Huế một cách cô đọng và giàu hình ảnh.

Vào một buổi chiều mùa thu, tại căn gác nhỏ ở ngôi trường Đồng Khánh xưa, cách đây gần ba mươi năm, tôi đã đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông với niềm say mê, thích thú và xúc động sâu xa. Nhấm nháp từng câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, tôi ngỡ mình đang "ăn những trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan thành dư vang của một tiếng chim…".

M.V.H

Các tin khác