1. Thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở tỉnh Thừa Thiên Huế, giai đoạn 1 (2022 - 2025)        2. Quy định mức thu giá dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục ngoài học phí đáp ứng nhu cầu người học của cơ cở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (Hoàn thành)        3. Phát triển giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Hoàn thành)        4. Đề án “Xây dựng trường trung học phổ thông chuyên Quốc học - Huế trở thành điểm sáng về chất lượng giáo dục trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của cả nước” (Hoàn thành)        5. Quy định mức thu học phí của cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập đối với chương trình đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm học 2023 – 2024 (Hoàn thành)        6. Quy định mức chi công tác tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông; kỳ thi tuyển sinh đầu cấp phổ thông; thi học sinh giỏi các cấp các môn văn hoá; thi chọn học sinh cấp quốc gia và tập huấn học sinh giỏi để dự thi cấp quốc gia; các kỳ thi tập trung cấp tỉnh (Hoàn thành)        7. Đề án "Xây dựng Trường THCS Nguyễn Tri Phương trở thành trường trọng điểm, chất lượng cao        8. Quy định mức thu học phí của các cơ sở đào tạo trung cấp, cao đẳng công lập đối với chương trình đào tạo đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm học 2022-2023 trở đi        9. Xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến 2045        10. Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế        11. Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2020 – 2025        12. Đề án hỗ trợ phát triển Giáo dục người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030        13. Nâng cao chế độ dinh dưỡng phát triển thể lực, tầm vóc trẻ em dành cho học sinh mầm non và tiểu học.       

Giải quyết các nhiệm vụ dạy học

GIẢI QUYẾT CÁC NHIỆM VỤ DẠY HỌC

VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA THIẾT BỊ HIỆN ĐẠI - MÁY VI TÍNH

TS. VƯƠNG ĐÌNH THẮNG

Phó trưởng khoa Tin học

Trường Đại học Sư phạm Huế

Đề dẫn:

Sự phát triển mạch mẽ của công nghệ thông tin nói chung, máy vi tính nói riêng đã có tác dụng quyết định đến sự phát triển của nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Người ta không còn nghi ngờ những khả năng ứng dụng của máy vi tính vào việc giải quyết các bài toán, đặc biệt các bài toán lớn, phức tạp, cần thao tác trên một cơ sở dữ liệu lớn, sự chia sẻ tài nguyên thông tin... Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy phạm vi cũng như hiệu quả của việc triển khai ứng dụng nó (vì nhiều lý do) đã không đạt được những kết quả tương xứng. Vì vậy, nếu có một sự hiểu biết khái quát, đầy đủ về những chức năng hỗ trợ dạy học của thiết bị hiện đại mới này các giáo viên và đặc biệt là cán bộ quản lý các cấp mới có sự quan tâm đúng mức, sự hoạch định chiến lược triển khai ứng dụng nó một cách có hiệu quả cho nhiều bộ môn, trong mọi hoạt động của nhà trường, chuẩn bị đón nhận sự ra đời tất yếu của một nền giáo dục điện tử trong tương lai. Với mục đích đó, bài viết chủ yếu tập trung vào việc mô tả, giải thích những chức năng tiềm tàng hỗ trợ dạy học của hệ thống máy tính, phần nào giúp giáo viên, cán bộ lãnh đạo của các trường có được những cơ sở cho việc hoạch định chiến lược khai thác, sử dụng nó một cách có hiệu quả trong tương lai.

Để đáp ứng được sự đổi mới của sự nghiệp giáo dục (GD) và đào tạo, xã hội yêu cầu nhà trường không ngừng nâng cao chất lượng GD toàn diện cho học sinh (HS) bao gồm việc cung cấp cho họ những kiến thức cơ bản, khoa học, chính xác, hiện đại; làm phát triển năng lực tư duy; rèn luyện kỹ năng kỹ xảo; hình thành phương pháp (PP) học tập (HT), làm việc khoa học, sáng tạo... góp phần rèn luyện và phát triển nhân cách của HS. Điều này đòi hỏi nhà trường không những phải hiện đại hoá về mặt nội dung, chương trình đào tạo mà còn phải thường xuyên hiện đại hoá phương tiện dạy học (DH), tiếp cận được những xu hướng mới của thế giới. GD phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của khoa học và kỹ thuật. Sự phát triển của khoa học và kỹ thuật đến lượt mình lại làm thay đổi mục tiêu và nội dung của GD phổ thông, đồng thời tạo khả năng mới cho việc truyền thụ và lĩnh hội có hiệu quả những nội dung mới đó.

Đặc điểm nổi bật của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay là sự phát triển có tính chất bùng nổ của công nghệ (CN) thông tin (TT). Trên thế giới và ngay cả ở Việt Nam trong những năm gần đây, máy vi tính (MVT) đã, đang và sẽ xâm nhập mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực: xã hội, khoa học và sinh hoạt của con người. Nhiều yếu tố cơ sở của Tin học đã trở thành một bộ phận của văn hoá phổ thông. Một xu hướng được nhiều nước quan tâm đó là MVT với tư cách là một phương tiện DH hiện đại sẽ được sử dụng vào quá trình (QT) DH, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học của tất cả các bộ môn, bởi vì MVT ngày càng tỏ ra ưu việt ở những chỗ mà không một phương tiện truyền thống nào trước đây có thể giải quyết được. Nhờ khả năng tương tác cao, sự tích hợp của nhiều khả năng khác mà MVT có được những đặc trưng mới về chất so với các phương tiện DH trước đó. CNTT và MVT nói riêng sẽ đưa đến cho sự nghiệp GD những chuyển biến sâu sắc và mạnh mẽ chưa từng thấy.

Những cơ sở về lý luận DH đã chỉ rõ, một QT DH phải bao gồm trong đó các chức năng cơ bản: củng cố trình độ tri thức xuất phát của HS; xây dựng được tiến trình tiếp thu các tri thức mới; củng cố, ôn luyện và vận dụng các kiến thức đã tiếp thu; tổng kết, hệ thống hoá kiến thức và kiểm tra đánh giá trình độ nhận thức, kỹ năng kỹ xảo của HS. Việc sử dụng các phương tiện DH nói chung và MVT nói riêng vào QT DH cần phải đảm bảo được việc thực hiện các chức năng đó.

Nếu như biết xây dựng và tổ chức lưu trữ trên bộ nhớ của MVT một cơ sở dữ liệu tri thức tốt, thì MVT tỏ ra là một phương tiện hỗ trợ rất đắc lực cho chức năng củng cố trình độ xuất phát của HS nhờ khả năng tìm kiếm và truy xuất thông tin theo yêu cầu một cách nhanh chóng của nó. Mặt khác, ngoài khả năng tái hiện đầy đủ những gì mà người sử dụng yêu cầu, MVT còn cho phép truy vấn TT theo yêu cầu với nhiều cách khác nhau, có thể ở mức chi tiết hay mức khái quát những nội dung kiến thức đã học, hoặc cũng có thể trích lọc thành lớp các đối tượng, sự vật theo một thuộc tính nào đó... chính vì vậy, việc củng cố trình độ, kỹ năng xuất phát của HS lại tạo những điều kiện làm nảy sinh những nhu cầu mới, những nội dung kiến thức mới-là tiền đề cho việc tổ chức DH theo hướng tích cực hoá hoạt động (HĐ) nhận thức của HS.

Những phần mềm mô phỏng hay minh hoạ các hiện tượng, các quá trình tự nhiên hay các thí nghiệm kết hợp với hội thoại người-máy, với sự trình diễn phong phú đầy ấn tượng sẽ vừa có tác dụng là nguồn cung cấp tri thức, vừa là phương tiện để xây dựng tri thức mới. Sử dụng MVT, giáo viên (GV) có nhiều điều kiện hơn để minh hoạ cho nội dung kiến thức cần truyền thụ, làm dễ dàng cho cả quá trình truyền đạt và lĩnh hội. Việc mô phỏng và minh hoạ có thể làm nổi bật mối quan hệ giữa những kiến thức đã biết với các sự vật, hiện tượng hay các quá trình đang nghiên cứu, tạo nên sự nhận diện những thuộc tính của cái đang được nghiên cứu với những cái đã được tiếp thu. Từ đó đã có tác dụng phát triển tư duy theo hướng suy lý diễn dịch để đi đến việc xây dựng những nội dung kiến thức mới từ các đối tượng đang nghiên cứu.

Cũng như đối với chức năng củng cố kiến thức kỹ năng kỹ xảo xuất phát, chức năng ôn tập, tổng kết, hệ thống hoá kiến thức sẽ được thực hiện tốt với sự trợ giúp của các phần mềm thích hợp trên MVT. Không chỉ đơn thuần là tái hiện lại đầy đủ những gì mà HS đã học, ở mức độ cao hơn MVT cùng các phần mềm sẽ cho phép hệ thống hoá, khái quát hoá các nội dung kiến thức một cách logic chặt chẽ, phù hợp với trình độ của HS và lặp lại quá trình ấy với một số lần tuỳ thích không hạn chế, đồng thời có thể dễ dàng chuyển đổi giữa các nội dung khác nhau.

Sử dụng MVT để thực hiện chức năng kiểm tra đánh giá kiến thức của HS, người ta thấy rất rõ những khả năng đặc thù của nó. Một ngân hàng đề được lưu trữ trên bộ nhớ máy tính cho phép tự động hoá việc sản xuất các đề thi và kiểm tra, thực hiện kiểm tra đánh giá trên một phạm vi khá rộng tri thức của môn học, đảm bảo tính chính xác, khách quan (không thiên vị), nhanh chóng trên nhiều đối tượng HS và kịp thời kiết xuất các tổng hợp báo cáo kết quả theo mong muốn. Sẽ không thể có được một thiết bị hỗ trợ DH nào thay thế được MVT để thực hiện được những chức năng này.

Chức năng cung cấp TT của máy tính càng phát huy cao hơn nữa khi xuất hiện hệ thống đa phương tiện và mạng máy tính toàn cầu. Làm việc trên các siêu văn bản (Hypertext), các em có thể thu thập TT từ nhiều nguồn khác nhau dưới tất cả các dạng có thể có: văn bản, đồ thị, biểu bảng, tranh ảnh, hình vẽ, âm thanh, phim... ở mức cao hơn, máy tính không chỉ cho phép lưu trữ TT (nội dung các văn bản, các số liệu đo đạc, thống kê...), thực hiện các phép xử lý: sửa đổi, tìm kiếm, sắp xếp, phân loại, chọn lọc, kiểm tra, xác định mối quan hệ có tính quy luật giữa chúng... (được biểu diễn dưới nhiều dạng: hàm số, đồ thị, biểu đồ, đồ hoạ...) mà còn cho phép rút ra những dự đoán, nhận định trong khi giải quyết các vấn đề HT trên hệ thống cơ sở dữ liệu tri thức (thông qua các hệ hỗ trợ quyết định).

Những chương trình được xây dựng đảm bảo những nguyên tắc DH sẽ có tác dụng điều chỉnh, định hướng và phát triển HĐ HT của HS. Việc HT trên máy tính có tác dụng cá biệt hoá cao độ người học. Máy tính tự động lưu giữ và đánh giá kết quả HT của mỗi cá thể, kịp thời đưa ra những TT phản hồi (các yêu cầu, những hướng dẫn, những nội dung hay những câu hỏi kiểm tra phụ...) dựa trên các kết quả đó, nhờ vậy HS có thể kịp thời điều chỉnh HĐ HT của mình cho phù hợp và mỗi HS sẽ được HT theo đúng với khả năng riêng có của mình. Với sự trợ giúp của MVT, HS có thể xác định nhanh chóng và đúng đắn những kiến thức cần phải ôn tập, những kiến thức cần được bổ sung. Ngoài ra máy tính còn đề xuất một tiến trình HT phù hợp với từng đối tượng HS sao cho họ có thể đạt được kết quả HT tốt nhất. Cũng nhờ vậy mà việc tổ chức DH có thể được tiến hành theo những hình thức khác: DH không lớp, DH từ xa, DH cho trẻ tàn tật, DH chương trình hoá... Về việc kiểm tra, phỏng vấn, thống kê và đánh giá, máy tính như là một thiết bị có tính PP nhờ tính đa năng của nó (vừa phỏng vấn, kiểm tra vừa thống kê, tổng hợp đánh giá). Tính chính xác, tính khách quan, tính nguyên tắc, tính hiệu quả kinh tế và phản hồi TT nhanh chóng nhưng không kém phần linh hoạt, mềm dẻo nhờ các mối quan hệ trên cơ sở dữ liệu là ưu điểm riêng có của MVT.

Như vậy, thông qua việc cung cấp TT, việc kiểm tra liên tục, lưu trữ và xử lý các kết quả kiểm tra mà máy tính được xem là một phương tiện truyền thông có nhiều thế mạnh hơn các phương tiện truyền thông khác, nó luôn đảm bảo mối liên hệ ngược trong, ngược ngoài, điều khiển và điều chỉnh kịp thời HĐ HT của HS. Đặc biệt trong trường hợp mà mối liên lạc giữa người dạy và người học khó thực hiện như đào tạo từ xa, HS khuyết tật... Ngày nay, với sự phát triển rộng rãi của mạng Internet và hệ thống đa phương tiện thì chức năng này của máy tính càng được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Các chương trình luyện tập và thực hành để rèn luyện các kỹ năng trên máy tính giúp cho HS có điều kiện tiếp xúc nhiều hơn với thực tiễn đã được đơn giản hoá-môi trường ảo, trước khi làm việc với các đối tượng thực. Việc làm đó đã mang lại hiệu quả lớn là tiết kiệm được thời gian (chuẩn bị của thầy, nghiên cứu của trò), hạn chế được tình trạng thiếu thiết bị, tránh hư hỏng hoặc nguy hiểm đối với người học (những thiết bị đắt tiền, những thí nghiệm nguy hiểm: chất nổ, chất cháy, chất độc...). Việc tạo ra các vi thế giới chỉ tồn tại trên máy tính, mà quy luật vận động của chúng tuân theo quy luật vận động của thế giới thực đã tạo ra những khả năng tốt phát huy tính độc lập, tự giác, chủ động sáng tạo của HS. Các sự vật và hiện tượng cần được tái tạo lại, khảo sát quá trình vận động của chúng, nêu các giả thuyết để giải thích, kiểm tra khẳng định tính đúng đắn hay bác bỏ giả thuyết, rút ra kết luận (những tri thức khoa học mới) và rồi lại vận dụng vào thực tiễn..., HS có thể tiến hành cả quá trình đó trên môi trường vi thế giới. Ở đây, ta thấy bên trong chức năng này là tư tưởng, là những cơ sở tâm lý của việc SD các PP dạy học hiện đại: DH giải quyết vấn đề, DH thông qua HĐ (Learning by doing). Đó cũng chính là mục đích của việc đổi mới PP dạy học trong giai đoạn hiện nay. Ví dụ như các phần mềm LOGO (do Pieget đề xuất), hình học phẳng Cabri (của Pháp), Interactive Physics (của Mỹ), Corocodile Physic, Chemistry, Mathematical, Technology, ICT... Máy tính có thể giúp HS phát triển khả năng diễn đạt, khả năng tư duy logic, đặc biệt là tư duy thuật toán nhờ các chương trình luyện viết, kiểm tra ngữ pháp hoặc các công cụ HT trên máy tính.

Nhờ khả năng biểu diễn TT bằng đồ hoạ mà các tranh vẽ, hình ảnh, mô hình, biểu đồ, hoạt hình, những đoạn phim... đã được kiết xuất nhanh chóng trên MVT, theo trật tự logic đã định trước, đáp ứng kịp thời và đúng yêu cầu của quá trình dạy học nhằm minh hoạ, trực quan hoá thế giới vật chất (nằm ngoài giới hạn tri giác của các giác quan thông thường của con người). Nói cách khác, các phương tiện dạy học nói chung, máy tính nói riêng đã cho con người khả năng hiểu thế giới nhiều hơn khi không có nó.

Trong công tác nghiên cứu, với những đối tượng mà không thể quan sát trực tiếp được (các hệ vi mô; vĩ mô; các hệ biến đổi quá nhanh hay quá chậm; điều kiện thực tế không cho phép vì nguy hiểm hay không có thiết bị...) thì con người thường SD PP mô hình để mô tả (một cách đơn giản, gần đúng) cấu trúc vật chất cùng những thuộc tính của chúng. Sau đó cho mô hình vận động theo những quy luật đã biết trên đối tượng thật, nhờ đó mà có thể tìm ra những tính chất mới, những mối quan hệ mới... giữa các thành tố của mô hình. Quá trình này người ta gọi là sự mô phỏng. Nhờ PP tương tự, con người lại có thể sử dụng những tính chất mới, những mối quan hệ mới này áp dụng cho đối tượng thực. Nếu chúng giúp con người giải thích đúng quá trình vận động và biến đổi của đối tượng thật thì những cái mới vốn đã được rút ra từ mô hình cũng sẽ là cái thuộc về đối tượng thực. Trong trường hợp này, máy tính tỏ ra là một công cụ có hiệu quả hơn cả. Nhờ việc xây dựng chính xác các mô hình mô tả những đối tượng thực trong thế giới tự nhiên trên máy tính và đưa mô hình vào HĐ (nhờ chức năng hoạt hình) mà máy tính có thể mô phỏng một cách sinh động, trung thực và đầy thuyết phục các đối tượng thực cần nghiên cứu. Thực ra, do tính ưu việt của máy tính, PP mô phỏng còn được ứng dụng (ngay cả trong những trường hợp con người có thể quan sát được trên đối tượng thực) với mục đích đơn giản hoá đối tượng, làm thay đổi tốc độ của tiến trình hay đơn giản vì không có thiết bị để tái tạo lại hiện thực cần nghiên cứu. Đây chính là việc ứng dụng các thí nghiệm mô phỏng về vật lý trên máy tính trong dạy học.

Máy tính có thể tham gia vào các thí nghiệm thực với tư cách là một thiết bị đo, lưu trữ, xử lý và hiển thị kết quả. Là thiết bị cập nhật số liệu: số liệu có thể được con người đưa vào từ bàn phím hoặc qua các thiết bị chuyển đổi nối kết với hệ thống MVT. Nó như một máy đo vạn năng có độ chính xác cao: máy tính có thể thực hiện chức năng của bất kỳ một thiết bị đo nào nhờ có các thiết bị ngoại vi và các phần mềm chuyên dụng tương ứng phù hợp. Là thiết bị lưu trữ và xử lý số liệu với tốc độ nhanh theo những mục đích xác định: đây là đặc tính riêng có của máy tính. Nó còn là thiết bị hiển thị kết quả dưới nhiều dạng dữ liệu khác nhau văn bản, hình ảnh, âm thanh với khả năng đồ hoạ ưu việt của nó.

Máy tính có thể được ứng dụng để trình bày lại các thí nghiệm thực đã được chụp ảnh hoặc quay phim. Nhờ việc xây dựng các chương trình phù hợp ta có thể ứng dụng thư viện các tranh ảnh và phim HT này theo những mục đích GD mong muốn mà các phương tiện khác trước dây không thể làm được (ví dụ: khả năng truy cập ngẫu nhiên lên các thư viện này, tìm kiếm, sắp xếp, chọn lọc... TT). Nói chung, hầu hết các thí nghiệm (từ đơn giản đến phức tạp) về mặt nguyên tác đều có thể mô phỏng được trên máy tính. Đặc biệt khi ứng dụng PP lập trình trên không gian ba chiều thì có thể mô phỏng được các thế giới vi mô, vĩ mô một cách sinh động đầy ấn tượng.

Kỹ thuật điện tử, công nghệ vi mạch, vi xử lý càng phát triển thì vai trò chức năng của MVT với tư cách là một phương tiện của QT DH càng phong phú và đa dạng. Hiện nay, thế giới đang trong giai đoạn SD thế hệ máy tính thứ V, đang được chứng kiến những khả năng kỳ diệu của máy tính trong nhiều lãnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Những cải tiến liên tiếp về phần cứng như tăng tốc độ xử lý của CPU (Center processing Unit), tăng dung lượng của các bộ nhớ trong và ngoài, giảm thiểu thể tích và giá thành của máy tính, chế tạo ra hàng loạt các thiết bị ngoại vi đa dạng và phong phú..., cùng với việc phát triển các phần mềm ứng dụng (theo hướng phát huy đến mức cao nhất tài nguyên của hệ thống máy tính, nâng cao khả năng lưu trữ, truyền và xử lý TT, có tính thân thiện cao, tính mở-tính mềm dẻo, giải quyết tối ưu các bài toán cụ thể trong những lĩnh vực cụ thể khác nhau...) đã đặt ra trước mắt chúng ta những triển vọng sử dụng mới.

V.Đ.T

Các tin khác