Nét đẹp của từ láy
ĐẶNG THỊ NGỌC PHƯỢNG
Trường THCS Nguyễn Tri Phương
Từ láy là một trong những phương tiện biểu đạt đặc sắc của thơ ca Việt Nam nói chung và thơ Nôm nói riêng. Tìm hiểu từ láy trong “Chinh phụ ngâm” là tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển về phương tiện biểu đạt của thơ ca Việt Nam; tìm hiểu năng lực biểu đạt – một phương tiện tu từ đặc sắc của ngôn ngữ, của một tác giả, ở một tác phẩm cụ thể. Qua đó, thấy được phong cách ngôn ngữ của tác giả trong một thời kỳ lịch sử nhất định.
Đến với tác phẩm “Chinh phụ ngâm”, ta thấy được giá trị biểu đạt của từ láy trên các phương diện: miêu tả bối cảnh không gian, sự kiện, bộc lộ tâm trạng nhân vật…
* Từ láy miêu tả cảnh chiến tranh:
Ngay từ đầu khúc ngâm, những từ láy đã xoáy sâu vào nỗi đau, nỗi tuyệt vọng, nỗi kinh hãi của con người trước một hiện thực đau lòng của chiến tranh:
Trống Trường thành lung lay bóng nguyệt
Lửa Cam Tuyền mờ mịt thức mây
Chín lần gươm báu chống tay
Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh
Bao nhiêu sự khủng khiếp của chiến tranh dồn vào hai từ láy: lung lay, mờ mịt. Chiến tranh làm mất đi sự thanh bình vốn có. Tám câu song thất lục bát mở đầu đem đến một thông điệp, đó là nguyên nhân gây ra sự cách ly, ly biệt giữa người chinh phu và người chinh phụ. Hai từ láy trên vừa nói lên cảnh chiến tranh đang xảy ra vừa diễn tả sự tác động của sự kiện đó đến với con người bằng những hình ảnh sinh động, để lột tả sâu sắc nỗi kinh hoàng về chiến tranh.
Cảnh xuất chinh cũng là một biến cố quan trọng. Tiếng kèn trống, tiếng nhạc ngựa cùng với bóng cờ bay giúp người đọc cảm nhận không gian của buổi xuất chinh: “Bóng cờ tiếng trống xa xa”, “Bên đường trông lá cờ bay ngùi ngùi”, “Hàng cờ đi trông bóng phất phơ”. Các từ láy: xa xa, ngùi ngùi, phất phơ làm cho cái không gian ấy trở nên lặng lẽ. Người chinh phụ dõi theo đoàn quân ấy trong tiếng trống xa mờ dần, bóng cờ giờ đây chỉ còn là cái “bóng phất phơ”. Bóng cờ như là vật kết nối tâm trạng của người chinh phụ với nỗi lòng sâu thẳm của người chinh phụ. Từ láy ngùi ngùi gợi lên bóng dáng của lá cờ nhưng đồng thời gợi tả nỗi niềm của sự chia ly.
Chiến trường là nơi nguy hiểm, là nơi đe doạ tính mạng của con người. Những câu thơ của “Chinh phụ ngâm” đã lột tả hết sức ác liệt và khủng khiếp của chiến tranh:
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.
Bốn từ láy: quạnh quẽ, đìu hiu, ù ù, dõi dõi tái hiện khung cảnh chiến trường thật thê lương, thật ảm đạm. Núi Kỳ hoang vắng, tĩnh mịch trong đêm thanh vắng. Bến Phì nằm im lìm trong cái hiu quạnh của gió. Con người trong bức tranh ấy mới thiểu não, mệt mỏi làm sao! Ánh trăng cao vòi vọi cùng với tiếng gió thổi khiến cho bức tranh về chiến trường càng thêm lạnh lẽo, hoang vắng, bị thương gợi lên cảm giác ghê rợn đầy tang tóc. Chính những từ láy trên đã góp phần diễn tả sự khủng khiếp mà chiến tranh mang lại.
* Không gian quê nhà:
Thiên nhiên quê nhà được vẽ bằng những nét bút tinh tế:
… Nay quyên đã giục oanh già
Ý nhi lại gáy trước nhà líu lo…
… Hoa giãi nguyệt nguyệt ươm một tấm
Nguyệt lồng hoa hoa thắm từng bông
Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.
… Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai.
Từ láy líu lo vừa miêu tả tiếâng chim hót, vừa gợi lên trong lòng người chinh phụ nỗi khắc khoải, âu lo và mong mỏi. Tiếng hót ấy như xoáy sâu vào nỗi mong chờ của nàng. Ở khổ thơ sau, từ láy trùng trùng tô đậm đường nét, hình khối cho bức tranh, tạo nên sự gắn bó quấn quýt của hoa và nguyệt. Từ láy xanh xanh của ngàn dâu nhạt nhoà trên cái nền bao la “Ngàn dâu xanh ngắt một màu”. Đó là màu xanh của tâm tưởng, màu xanh của ly biệt. Sức sống của thiên nhiên, của tạo hoá như càng khơi gợi nhu cầu hạnh phúc của người chinh phụ.
Bức tranh quê nhà được vẽ lên từ bốn hướng. Bức tranh phía Nam, không gian được khắc hoạ bởi đường nét màu xanh của cỏ, của bãi dâu, của đàn cò. Đặc biệt là hình ảnh: “Nhà thôn mấy xóm chông chênh”. Từ láy chông chênh gợi tả cái cheo leo của nhà thôn, đồng thời tạo nên cảm giác cô liêu, hiu quạnh. Cảnh vật ở đây tĩnh lặng quá khiến cho lòng người thêm nhớ nhung, thấp thỏm.
Bức tranh phía Bắc được khắc hoạ bằng hình ảnh động:
Trông đường Bắc đôi chòm quán khách
Rườm rà cây xanh ngắt núi non
Lúa thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu
Những từ láy: Rườm rà, thoi thóp, véo von vừa đặc tả cảnh, vừa gợi âm thanh. Từ thoi thóp tả sóng lúa rập rờn, vừa thể hiện tâm trạng bồn chồn, lo lắng có phần chán ngán pha sự thất vọng của người chinh phụ. Ngay tiếng sáo véo von cũng không làm giảm đi nỗi buồn, sự trống vắng trong lòng người chinh phụ.
Bức tranh phía Đông và phía Tây gợi cảm hơn. Thiên nhiên như hoà lẫn trong nỗi cô quạnh của người thiếu phụ. Hai câu thơ:
Ngàn khơi khói toả mịt mờ
Con chim bạt gió lo bì nản kêu
diễn tả cái xao xác đầy xót xa. Từ láy mịt mờ gợi lên cái mịt mù của không gian, cùng với tiếng kêu của con chim lạc loài khiến cho ta cảm nhận sự nhỏ nhoi, yếu ớt, cô đơn của con người. Thật vậy, ngoại cảnh đã góp phần không nhỏ trong việc diễn tả nỗi lòng nhớ thương và mong chờ của người vợ chờ chồng.
Hàng loạt từ láy được sử dụng vào việc miêu tả không gian cảnh vật đồng thời diễn tả tâm trạng nhớ mong của người chinh phụ. Những từ láy này tái hiện màu sắc, đường nét, âm thanh của không gian quê nhà. Không gian được thể hiện qua cái nhìn của người chinh phụ, một không gian nhuốm màu ảm đạm, phản ánh tâm trạng cô đơn của nhân vật trữ tình trong “Chinh phụ ngâm”.
* Miêu tả tâm trạng nhân vật:
Toàn bộ khúc ngâm đều xoay quanh tâm trạng nhớ mong, buồn tủi của người chinh phụ. Những cung bậc tình cảm đó được miêu tả rất tinh tế qua những từ láy mô tả tâm trạng. Tâm trạng người chinh phụ trong cảnh chia ly thấm đẫm nỗi buồn:
Đưa chàng lòng dặc dặc buồn
Bộ khôn bằng ngựa thuỷ khôn bằng thuyền
Nước có chảy mà phiền không tả
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
Từ láy dặc dặc thể hiện tâm tư, nỗi buồn như nặng trĩu, tràn ngập trong lòng người chinh phụ. Nỗi buồn ấy da diết, triền miên không dứt. “Bước đi một bước dây dây lại dừng” diễn tả tâm trạng ngập ngừng, bối rối. Hai từ láy này đặc tả tâm trạng của người chinh phụ trong buổi tiễn biệt chồng.
Cuộc chia tay đã để lại nỗi buồn nhớ, chờ đợi trong âu lo. Nỗi thất vọng thể hiện qua tiếng thở dài, qua những bước đi:
… Tin gửi đi tin không thấy lại
Hoa dương tàn đã trải rêu xanh
Rêu xanh mấy lớp chung quanh
Chân đi một bước trăm tình ngẩn ngơ.
.... Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà
Từ láy ngẩn ngơ khắc sâu nỗi thất vọng, buồn khổ trong lòng người chinh phụ. Tâm trạng ngẩn ngơ ấy còn ẩn chứa trong đợi chờ, hy vọng:
Trời hôm đứng chải ngẩn ngơ
Trăng khuya nương gối bơ thờ rũ mai
Há như ai hồn sai bóng lẫn
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn hư không
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng
Lệch làn tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Cùng với từ láy ngẩn ngơ, từ láy bơ thờ, thơ thơ thẩn thẩn, thẹn thùng đã diễn tả trạng thái tinh vi, nỗi lòng không biết ngỏ cùng ai một cách tinh tế. Tất cả những cử chỉ, trạng thái của người vợ trẻ diễn ra trong vô thức. Nỗi sầu dài dằng dặc, triền miên:
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại chứa chan
Hai từ láy đằng đẵng, dằng dặc chỉ thời gian đã được tâm trạng hoá, biểu thị trường độ nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy trải dài trong không gian và thời gian. Những từ láy trong trường hợp này có giá trị biểu cảm cao. Những từ láy diễn tả sâu sắc, nỗi nhớ, sự chờ mong của người chinh phụ:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Từ láy thăm thẳm, đau đáu không chỉ thể hiện nỗi nhớ thường trực mà còn đi đến độ sâu của nỗi nhớ. Tâm trạng của người chinh phụ thể hiện thật rõ nét trong khúc ngâm. Hệ thống từ láy đã góp phần diễn tả sâu sắc các cung bậc của nỗi nhớ, đem lại sự xót xa, cảm giác nỗi đau quá thấm thía về thế giới nội tâm của người chinh phụ.
“Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm đạt nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật vận dụng từ láy vào việc biểu đạt nội dung tác phẩm. Có thể nói, ở “Chinh phụ ngâm” từ láy đã đạt đến giá trị thẩm mỹ, trình độ chuẩn mực trong khả năng biểu đạt. Nó góp phần tạo nên một phong cách ngôn ngữ đặc sắc, giúp cho người đọc cảm nhận được tất cả cái hay, cái đẹp và sự trong sáng của tiếng Việt.
Đ.T.N.P