1. Thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở tỉnh Thừa Thiên Huế, giai đoạn 1 (2022 - 2025)        2. Quy định mức thu giá dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục ngoài học phí đáp ứng nhu cầu người học của cơ cở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (Hoàn thành)        3. Phát triển giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Hoàn thành)        4. Đề án “Xây dựng trường trung học phổ thông chuyên Quốc học - Huế trở thành điểm sáng về chất lượng giáo dục trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của cả nước” (Hoàn thành)        5. Quy định mức thu học phí của cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập đối với chương trình đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm học 2023 – 2024 (Hoàn thành)        6. Quy định mức chi công tác tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông; kỳ thi tuyển sinh đầu cấp phổ thông; thi học sinh giỏi các cấp các môn văn hoá; thi chọn học sinh cấp quốc gia và tập huấn học sinh giỏi để dự thi cấp quốc gia; các kỳ thi tập trung cấp tỉnh (Hoàn thành)        7. Đề án "Xây dựng Trường THCS Nguyễn Tri Phương trở thành trường trọng điểm, chất lượng cao        8. Quy định mức thu học phí của các cơ sở đào tạo trung cấp, cao đẳng công lập đối với chương trình đào tạo đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm học 2022-2023 trở đi        9. Xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến 2045        10. Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế        11. Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2020 – 2025        12. Đề án hỗ trợ phát triển Giáo dục người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030        13. Nâng cao chế độ dinh dưỡng phát triển thể lực, tầm vóc trẻ em dành cho học sinh mầm non và tiểu học.       

Sau giờ giảng

SAU GIỜ GIẢNG

NỖI LÒNG CỦA NGƯỜI THẦY DẠY VĂN

TRẦN VĂN TOẢN

GV. Trường Quốc Học - Huế

Sau giờ giảng có bao điều muốn nói. Sau giờ giảng thầy lại nghĩ suy về bài giảng vừa xong. Sau giờ giảng thầy nghĩ về trang giáo án với bảng đen, phần trắng… để làm sao mỗi giờ lên lớp là thêm một ô cửa kiến thức mở ra. Muốn nói bao nhiêu, muốn kể bao nhiêu cũng chưa trọn nỗi niềm của người thầy sau giờ giảng. Bài thơ Sau giờ giảng của Giang Biên là những trăn trở không yên, là cả một khoảng lặng suy tư của người thầy dạy văn sau một lần rời bục giảng:

Trên bảng đen, những nét phấn vô tình

Có ngăn nổi lời nước non sâu thẳm

Ta cỗi cằn và ta xơ cứng

Hay văn chương chưa đồng vọng với đời?


Thầy đọc, trò ghi trì trệ một thời

Như chim nhồi rơm, như thân bướm ép

Thầy ra lớp, học trò gấp sách

Khoảng cách nhân văn cứ bước xa gần


Biển và trời bên cửa sổ mênh mang

Rời rợi xanh ập oà trăm đợt sóng

Bài thơ ngủ yên và trang giấy trắng

Thao thức khôn nguôi trước giờ giảng hững hờ…

Bài thơ là lời độc thoại, tâm tình của một người thầy dạy văn sau một giờ lên lớp. Chao ôi, tiết giảng văn trôi qua, điều gì đọng lại trong sâu thẳm học trò. Có hay không một niềm rung động từ lời giảng của thầy, từ hình tượng văn chương in trên trang sách?

Trên bảng đen những nét phấn vô tình, câu thơ mở đầu bài thơ như một lời tự nhủ. Người thầy nghĩ về tiết dạy văn còn chưa nguôi lời giảng. Nét phấn vô tình cứ hiện dần lấp đầy khoảng trống bảng đen mà không lấp nổi khoảng trống trong tâm hồn trò… Từng con chữ theo bàn tay thầy hiện trên bảng có làm rung động trái tim học trò! Lẽ tình, qua lời giảng của thầy sẽ mở ra cho các em bao tình yêu và ước vọng, để rồi, qua lời giảng của thầy, các em yêu hơn cánh cò, yêu hơn câu ca dao, lời ru của mẹ, yêu hơn điệu hồn dân tộc. Nghĩa là qua mỗi câu thơ, hình ảnh… làm ngân rung “lời nước non sâu thẳm”, để rồi tiếng vọng cuộc đời – qua văn chương – trở thành tiếng vọng của tâm hồn.

Ý thức về sứ mệnh văn chương, về vai trò, đặc trưng bài giảng văn, người thầy trong bài thơ cảm thấy băn khoăn vì một tiết giảng văn đã đi qua không như mong muốn. Lời độc thoại, chất vấn “Ta cỗi cằn và ta xơ cứng. Hay văn chương chưa đồng vọng với đời” nghe đau đáu cõi lòng. Người thầy dạy văn như là người nghệ sĩ trên sân khấu. Giọng điệu khi thì ngân nga, sang sảng, khi thì sâu lắng, nhẹ nhàng. Những âm vang trong từng bài giảng của thầy sẽ trở thành những âm vang trong thế giới cảm xúc vốn nhạy cảm của tuổi học trò. Vậy mà – “ta cằn cỗi ta xơ cứng” – câu thơ thổn thức một nỗi lòng. Hai từ “ta” nhấn mạnh lời tự vấn đầy trách nhiệm của người thầy dạy văn, thầy cảm thấy mình bất lực bởi không điều khiển được men say nhịp đưa cảm xúc tâm hồn. Vì thế:

Thầy đọc, trò ghi trì trệ một thời

Như chim nhồi rơm, như thân bướm ép

Thầy ra lớp, học trò gấp sách

Khoảng cách nhân văn cứ bước xa gần

Chao ôi, còn gì buồn và chán hơn cái cảnh “thầy đọc – trò ghi” âm thầm, lặng lẽ. Chính cái lối dạy trì trệ, sáo rỗng, đơn điệu này đã làm héo khô không ít mảnh tâm hồn vốn xanh tươi. Chính những “nét phấn vô tình”, lời giảng “cỗi cằn”, “xơ cứng”, lối dạy “thầy đọc – trò ghi” đã dẫn đến kết cục buồn: bài giảng vô cảm, vô hồn, như “chim nhồi rơm”, như “thân bướm ép”. Sự nhồi và ép ấy có tạo gì đâu niềm hứng thú nơi các cô cậu học trò. Vì thế: “Thầy ra lớp, học trò gấp sách. Khoảng cách nhân văn cứ bước xa gần”. Vậy là giờ văn trôi qua trong lời độc giảng của thầy, khi thầy bước ra khỏi lớp, trả lại bục giảng, phấn trắng, thì cũng là lúc học trò gấp sách lại và với vẻ đẹp nhân văn vẫn còn là khoảng cách. Thế giới nghệ thuật ngôn từ vẫn chưa đủ sức đi ra từ văn bản để làm thăng hoa cảm xúc người học. Nhận ra điều này, thầy cứ mãi thao thức khôn nguôi. Sau cái giật mình và nếp nhăn suy tư trên trán khi hồi tưởng tiết dạy của mình, thầy chợt nhận ra rằng:

Biển và trời bên cửa sổ mênh mang

Rời rợi xanh ập oà trăm đợt sóng

Bài thơ ngủ yên và trang giấy trắng

Thao thức khôn nguôi trước giờ giảng hững hờ…

Văn chương đích thực bao giờ cũng mở ra chân trời kì diệu, lay động và làm thanh lọc những cảm xúc tinh tế, nhân văn. Thế giới văn chương là thế giới của “biển và trời bên cửa sổ mênh mang. Rời rợi xanh ập oà trăm đợt sóng”. Cuộc sống vỗ vào thơ trăm ngàn lớp sóng để rồi qua điệu giảng của thầy, sóng cuộc đời, sóng thi ca ngân vỗ trở thành những con sóng lòng mênh mang, da diết để người đọc, người học lại yêu mến hơn cuộc sống này. Ước mong, khát khao thì vô cùng vô tận nhưng bài giảng hôm nay chưa đến tận cùng. Thầy buồn bởi bài thơ, câu thơ dường như vẫn còn ngủ yên trên trang sách và lòng học trò chưa thấy xốn xang. Thầy lo các em có còn yêu trang văn, trang đời nữa hay không khi thầy chưa “ngân nổi lời nước non sâu thẳm” … “Giờ giảng văn hững hờ” là do đâu? Ám ảnh trong lòng người đọc là hai câu thơ: “Ta cỗi cằn hay ta xơ cứng/Hay văn chương chưa đồng vọng với đời”. Thầy tự hỏi và người đọc cũng băn khoăn tự hỏi rằng: hoặc là do người dạy không mang “lửa” trong lòng để thiếu đi chất văn cần có trong giờ giảng văn, hoặc là do chính tác phẩm văn chương chưa đủ sức lay động những tâm hồn bởi nó thiếu đi chất đời và nhà văn chưa tìm được tiếng nói đồng vọng kết nối tri âm? Câu hỏi đặt ra và thầy không trả lời, chỉ biết rằng thầy vẫn cứ “Thao thức không yên trước giờ giảng hững hờ”…

Bài thơ ngắn gọn – 12 dòng thơ – nhưng mỗi câu chữ là cả một tấc lòng. Xuyên suốt trong mỗi từ, mỗi khổ thơ là niềm nuối tiếc không yên của người thầy. Mới đọc tưởng người thầy trong bài thơ hững hờ, vô tình. Thực ra, người thầy ở đây chẳng hững hờ chút nào. Bởi hờ hững, vô tâm thì làm sao cứ bứt rứt đến thao thức, trăn trở khi rời bục giảng! Được biết tác giả của bài thơ – Giang Biên – là một thầy giáo dạy văn lâu năm – vì thế những gì mà bài thơ thể hiện là những lời tâm sự, chiêm nghiệm suốt một đời dạy văn. Cái giật mình của thầy khi nghĩ về tiết giảng là cái giật mình đầy lương tâm và trách nhiệm. Nếu mỗi thầy cô dạy văn biết day dứt, biết tự nhận xét mình sau mỗi lần lên lớp thì hay và quý biết mấy!

Bởi vì biết nhận ra những hạn chế, dám đối mặt và chấp nhận những thất bại có nghĩa là ta đã thành công. Bài thơ Sau giờ giảng giản dị mà ý nghĩa biết bao.

Với tôi, đó là bài thơ hay, bài học đẹp đối với bạn đọc, đối với thầy cô giáo dạy văn – nhất là hiện nay – khi chúng ta đang đổi mới chương trình, sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy. Sau giờ giảng là bức thông điệp: hãy trả lại cho văn chương những giá trị đích thực; hãy làm thăng hoa cảm xúc cho mỗi tâm hồn bạn trẻ sau mỗi tiết giảng văn; hãy làm cho mỗi tâm hồn ngân rung “lời nước non sâu thẳm” để thấy “biển và trời bên cửa sổ mênh mang. Rời rợi xanh ập oà trăm đợt sóng”. Nhiệm vụ đó phụ thuộc rất lớn vào người thầy dạy văn, của những nhà giáo dục, những người biên soạn sách và của cả những nghệ sĩ sáng tạo văn chương.

T.V.T

Các tin khác