1. Thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở tỉnh Thừa Thiên Huế, giai đoạn 1 (2022 - 2025)        2. Quy định mức thu giá dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục ngoài học phí đáp ứng nhu cầu người học của cơ cở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (Hoàn thành)        3. Phát triển giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Hoàn thành)        4. Đề án “Xây dựng trường trung học phổ thông chuyên Quốc học - Huế trở thành điểm sáng về chất lượng giáo dục trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của cả nước” (Hoàn thành)        5. Quy định mức thu học phí của cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập đối với chương trình đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm học 2023 – 2024 (Hoàn thành)        6. Quy định mức chi công tác tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông; kỳ thi tuyển sinh đầu cấp phổ thông; thi học sinh giỏi các cấp các môn văn hoá; thi chọn học sinh cấp quốc gia và tập huấn học sinh giỏi để dự thi cấp quốc gia; các kỳ thi tập trung cấp tỉnh (Hoàn thành)        7. Đề án "Xây dựng Trường THCS Nguyễn Tri Phương trở thành trường trọng điểm, chất lượng cao        8. Quy định mức thu học phí của các cơ sở đào tạo trung cấp, cao đẳng công lập đối với chương trình đào tạo đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm học 2022-2023 trở đi        9. Xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến 2045        10. Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế        11. Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2020 – 2025        12. Đề án hỗ trợ phát triển Giáo dục người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030        13. Nâng cao chế độ dinh dưỡng phát triển thể lực, tầm vóc trẻ em dành cho học sinh mầm non và tiểu học.       

Các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả

VỀ CÁC YẾU TỐ NGÔN NGỮ CÓ CHỨC NĂNG MIÊU TẢ
TRONG CA DAO CỔ TRUYỀN VIỆT NAM

 


ThS. Trần Văn Sáng
Trường Đại học Phú Xuân

Khi nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ - tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao cổ truyền Việt Nam, chúng tôi nhận thấy, cái làm nên sự phong phú và đa dạng, định hình khuynh hướng biểu trưng hoá các tín hiệu vật thể trong thế giới nghệ thuật ca dao chính là các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả các tín hiệu thẩm mĩ. Giá trị biểu trưng các tín hiệu vật thể trong ngôn ngữ ca dao cổ truyền, một phần do chính bản thân các tín hiệu vật thể đem lại (trầu, cau, rồng, thuyền, bến, đào, mận, trúc, mai...); một phần do sự miêu tả - cụ thể hoá các tín hiệu, tồn tại thông qua các “biến thể”(từ vựng và ngữ pháp). Chúng được xem là các “hiện dạng”(1) của các tín hiệu thẩm mĩ trong thế giới biểu trưng nghệ thuật ca dao (trầu vàng, cau xanh, mây hồng, sập vàng, áo gấm xông hương, đũa mốc, mâm son, trăng vàng, trăng thanh, trầu loan, trầu phượng, biển cạn, lèn nghiêng, non cao, núi thẳm, sông cùng ...). Các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả hoạt động phong phú về từ loại, đa dạng về cấu trúc và uyển chuyển về vị trí. Chúng tạo nên những gam màu tươi sáng, đậm chất ước lệ tượng trưng trong cách cảm nhận của những nghệ sĩ bình dân.

 Các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả được dùng để cụ thể hoá cả tín hiệu thẩm mĩ đơn lẫn tín hiệu thẩm mĩ- sóng đôi. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ nghiên cứu, khảo sát sự hoạt động của các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả các tín hiệu vật thể-sóng đôi (2), một dạng thức tồn tại đặc biệt mang đặc trưng thi pháp ngôn ngữ ca dao.

 1. Các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả được chúng tôi quan niệm là các yếu tố ngôn ngữ phụ thuộc, đóng vai trò định ngữ trong các kết cấu danh ngữ với danh từ chỉ sự vật làm trung tâm; hoặc các yếu tố vị ngữ trong các kết cấu chủ - vị mà các danh từ làm chủ ngữ.

Để tìm hiểu sự hoạt động của các yếu tố miêu tả, chúng tôi tiến hành các thao tác cơ bản sau:

- Thống kê toàn bộ các yếu tố miêu tả có tác dụng cụ thể hóa đối với các tín hiệu thẩm mĩ, số lượng các yếu tố miêu tả, đặc điểm từ loại, cú pháp của các yếu tố miêu tả và số lần xuất hiện.

- Khái quát hóa các yếu tố miêu tả và rút ra những giá trị thẩm mĩ mà các yếu tố miêu tả đem lại; đồng thời chỉ ra khuynh hướng miêu tả-cụ thể hóa trong ngôn ngữ ca dao.

Sự biểu đạt ngôn ngữ các tín hiệu thẩm mĩ bằng các danh từ chỉ sự vật phải được biến hóa, phức hóa bằng các yếu tố ngôn ngữ có tính miêu tả thì giá trị biểu trưng của chúng mới được bộc lộ, được cụ thể hóa, biến đổi linh hoạt, sáng tạo, góp phần định hình khuynh hướng biểu trưng chung của các tín hiệu thẩm mĩ.

2. Khảo sát 1390 đơn vị ca dao trong cuốn “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan(3), chúng tôi xác định được 488 đơn vị vật thể - sóng đôi; trong đó có 328 tín hiệu vật thể - sóng đôi với 800 lần xuất hiện với ý nghĩa hàm ẩn mang tính biểu trưng (chiếm 67 %). Đáng chú ý là, có tới 185 đơn vị tín hiệu vật thể - sóng đôi có yếu tố miêu tả đi kèm, với 226 lần lặp lại (tỉ lệ 1,3 lần/ 1 đơn vị). Sự xuất hiện thường trực của các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả làm cho các tín hiệu vật thể trong ngôn ngữ ca dao “nói bằng biểu trưng, tồn tại bằng biểu trưng”(4).

Qua việc khảo sát, chúng tôi nhận thấy các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả do các từ loại khác nhau đảm nhiệm với những biến thể từ vựng và ngữ pháp đa dạng.

2.1. Các yếu tố miêu tả - cụ thể hóa là danh từ

Theo số liệu thống kê của chúng tôi, có khoảng 30 đơn vị danh từ, với 40 lần xuất hiện (trung bình 1,4 lần/đơn vị), chiếm tỷ lệ 16, 2% số đơn vị và 17,6% số lần xuất hiện chung của các đơn vị miêu tả. Với tỷ lệ này, chúng tôi nhận thấy các yếu tố miêu tả - cụ thể hóa là danh từ có vai trò nhất định trong việc miêu tả tính chất trừu tượng, khái quát hóa của các tín hiệu vật thể trong ca dao. Có thể phân các yếu tố miêu tả do danh từ đảm nhận thành hai nhóm sau:

- Các yếu tố miêu tả là danh từ chung:

Các yếu tố miêu tả là danh từ chung xuất hiện với các biến thể đa dạng, phong phú, tiêu biểu là các đơn vị sau: nhà tre - nhà gỗ bức bàn, ngói bức bàn -gian chuồng gà, nhà rạ lòa xòa - tòa nhà lim, chiếu cói-võng đay, cầu tre-cầu thượng gia, điện ngọc- đền rồng, trầu loan-trầu phượng, dây trúc - dây loan...

- Tình thương quán cũng như nhà

Lều tranh có nghĩa hơn toà ngói cao.

Nhóm các đơn vị miêu tả là danh từ chung nếu xuất hiện bên cạnh tín hiệu thẩm mĩ đơn thì chỉ dừng lại ở việc hạn định các vật thể, cho nên chưa bộc lộ được hết nội dung cảm xúc mà các yếu tố miêu tả đem lại. Nhưng sự xuất hiện kèm theo các tín hiệu vật thể - sóng đôi lại mang hàm ý biểu trưng sâu sắc, tạo nên những giá trị ngữ nghĩa đối lập. Trong ca dao, nhắc đến nhà gỗ bức bàn, toà nhà lim, toà ngói cao là nói đến sự giàu sang phú quí về của cải vật chất; còn nhắc đến nhà rạ loà xoà, một gian chuồng gà, lều tranh,…ta liên tưởng ngay đến sự nghèo nàn, khổ cực của cuộc sống người dân lao động: “Chớ tham nhà ngói bức bàn - Trái duyên coi bẵng một gian chuồng gà - Ba gian nhà rạ loà xoà - Phải duyên coi tựa chín toà nhà lim”.

Sự đối lập giữa những cảnh đời giàu/nghèo, cao sang/thấp hèn chứng minh cuộc sống đa dạng và phong phú với điều kiện sống khác nhau và những con đường để đạt tới hạnh phúc cũng khác nhau; qua đó hiểu thêm như thế nào là cuộc sống hạnh phúc trong quan niệm của người xưa qua cách ví von hình tượng rất ca dao: Đã yêu anh thì quyết với anh/ Nhà tre, rui nứa lợp tranh vững vàng/ Chớ tham nhà gỗ bức bàn/ Gỗ lim chẳng có làng choàng gỗ vông…

- Các yếu tố miêu tả là danh từ riêng

Các đơn vị miêu tả do danh từ riêng đảm nhận chủ yếu do các danh từ riêng gọi tên địa danh. Đó có thể là các địa danh chỉ đối tượng địa lý tự nhiên: hoa thiên lý Tây- cây muội nồi, sen Bạch Diệp- hồ Tịnh Tâm, bưởi Chi Đán - quýt Đan Hà, cau Nam Phổ- trầu Chợ Dinh, núi Tản Viên - sông Tô Lịch, sông Bạch Đằng- núi Lam Sơn, núi Ngự Bình- sông An Cựu, truông Nhà Hồ- phá Tam Giang, núi Thành Lạng- sông Tam Cờ, sông Ngô- bể Sở, nước Sông Thao - núi Ba Vì, sông Ngô-sông Thương... ; hoặc địa danh chỉ đối tượng địa lý nhân văn như: cầu Ái Tử - núi Vọng Phu, lạch Đồng Nai-chùa Thiên Mụ,…

Các đơn vị miêu tả - cụ thể hóa do danh từ riêng đảm nhận chủ yếu dùng để miêu tả các địa danh nổi tiếng hoặc các đặc sản mỗi vùng quê. Vì thế, chúng mang giá trị biểu trưng cho văn hoá mỗi vùng miền.

- Bao giờ lở núi Tản Viên

Cạn sông Tô Lịch, mới quên nghĩa người.

Mỗi tên sông, tên núi, tên làng, tên chợ... đều gắn liền với mỗi miền quê và bóng dáng con người nơi đó. “Cầu Ái Tử - núi Vọng Phu” biểu trưng cho tấm lòng chung thủy sắt son (Mẹ trông con qua cầu Ái Tử - Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu), “Bưởi Chi Đán - quýt Đàn Hà, cà phê Phú Hộ - trà Thái Ninh, cau Nam Phổ - trầu Chợ Dinh”... biểu trưng cho đặc trưng sản vật, sự giàu có, sinh hoạt kinh tế, văn hoá của mỗi làng quê. Nói đến Huế là nói đến “sông Hương - núi Ngự”, “núi Ngự Bình - sông An Cựu” (Núi Ngự Bình trước tròn sau méo- Sông An Cựu nắng đục mưa trong).

Như vậy, việc miêu tả các tín hiệu thẩm mĩ thông qua các yếu tố ngôn ngữ có chức năng miêu tả do danh từ đảm nhận đã góp phần làm rõ “căn cước” các tín hiệu vật thể trong thế giới biểu trưng nghệ thuật ca dao.

2.2. Các yếu tố miêu tả là tính từ

Các yếu tố miêu tả là tính từ gồm khoảng 138 đơn vị miêu tả và 152 lần xuất hiện (trung bình 1,1 lần/ đơn vị sóng đôi), chiếm tỷ lệ 74,5% số đơn vị và 82,1% số lần xuất hiện chung của các đơn vị miêu tả. Số liệu này cho phép chúng tôi rút ra kết luận sau: sự miêu tả - cụ thể hóa các tín hiệu thẩm mĩ trong ca dao cổ truyền Việt Nam do các tính từ (tính ngữ) đảm nhận là chủ yếu. Có thể phân các tính từ đảm nhận yếu tố miêu tả - cụ thể hóa các tín hiệu thẩm mĩ thành các tiểu nhóm sau:

- Các yếu tố miêu tả là tính từ chỉ màu sắc, ánh sáng:

Đây là một kiểu miêu tả đặc trưng trong ngôn ngữ ca dao cổ truyền. Sự xuất hiện của các tính từ màu sắc, ánh sáng bên cạnh các tín hiệu thẩm mĩ vật thể đã tạo nên lối nói ví von, tượng trưng, ước lệ của người bình dân, tạo nên một thế giới lung linh tuyệt đẹp. Đó có thể là những vật thể giản dị trong cuộc sống hằng ngày: con dao vàng-lá trầu vàng, hạt gạo trắng ngần-nước đục, chuông đồng-nhạn trắng,…đến những cảnh tượng thiên nhiên tươi đẹp và hùng vĩ; non xanh-nước biếc, cau xanh- trầu vàng, trầu xanh- cau trắng, cau trắng- chay vàng, non xanh-nước bạc, chim xanh- vườn hồng, yếm đỏ-mây xanh, nước trong-nước đục, mây bạc-trời hồng, con cá hồng-con tép bạc,...; những vật thể thậm chí chỉ tồn tại trong mộng tưởng: chỉ thắm- hạt vàng, sập vàng- manh chiếu rách, chiếu hoa- sập vàng, chim khôn-lưới hồng, kiệu vàng-khớp bạc, gác tía-lầu hoa,…

- Ai làm cho bướm lìa hoa

Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.

 Qua các nhóm tính từ chỉ màu sắc, ánh sáng được miêu tả, chúng tôi nhận thấy sự đối lập hay tương đồng về ánh sáng như: trong - đục, sáng - tối... tạo nên giá trị biểu trưng đối lập giữa các vật thể: “nước trong - nước đục”, “hạt gạo trắng ngần - nước đục”. Trong nhóm này, nổi bật lên và chiếm đa số là các tính từ chỉ màu sắc miêu tả sóng đôi với nhau với những gam màu tươi tắn, sáng sủa. Đặc biệt, “màu sắc được dùng để miêu tả một cách phong phú và đa dạng thế giới vật thể trong ca dao. Vừa có trăng vàng, mây vàng, trầu vàng, mà cũng có sập vàng, dao vàng; không chỉ có cau xanh, chim xanh, mà còn có cả lưng xanh, chim xanh, non xanh, tầm xuân xanh biếc, núi nhoà xanh xanh; không chỉ có răng đen, con mắt đen sì, bến đen sì, mà còn có cả áo đen, tượng đồng đen, chồng đen…”(5). Các màu vàng - xanh - hồng trở nên nét đặc trưng cho các vật thể thiên nhiên, cảnh đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp của các vật thể nhân tạo gắn liền với mộng ước lí tưởng hóa trong cuộc sống. Tính từ vàng trở nên hoa mĩ và lí tưởng hóa những cái đời thường trong cuộc sống hàng ngày: tượng tô vàng, kiệu vàng, con dao vàng, lá trầu vàng, kiệu vàng, sập vàng, mây vàng, mâm vàng, chay vàng, hạt vàng...

- Con dao vàng rọc lá trầu vàng

Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa.

- Các yếu tố miêu tả là tính từ chỉ độ đo, hình khối:

Sự xuất hiện của các yếu tố miêu tả chỉ độ đo hình khối làm rõ ràng hơn mối quan hệ giữa các tín hiệu vật thể - sóng đôi, tạo nên những sự đối lập mang hàm ý biểu trưng. Sự đối lập giữa lớn - nhỏ, rộng - hẹp, đầy - vơi là sự đối lập giữa các vật thể (cao, rộng, dài, sâu, thẳm, lớn, đầy, rậm...) với các vật thể (nhỏ, hẹp, vơi, cùng, con, thưa, ngắn...): dây vắn- gàu thưa, thuyền lớn - thuyền nhỏ, thuyền dọc - chiếu ngang, trên trời - dưới đất, đèo cao- núi thẳm, núi thẳm- sông cùng, núi cao- sông rộng, sông sâu- nước dọc, nước dọc- đò ngang, nước lớn- đò đầy, núi cao- trăng tròn, cận núi- kề sông, non ngất- sông dài, sông rộng- rừng cao, giường trên- chiếu dưới, đông đào- tây liễu, giường dọc- chiếu ngang, giường rộng- chiếu dài,…

- Sông dài thì lắm đò ngang

Anh nhiều nhân ngãi, em mang oán thù.

Có thể nhận thấy, nhóm tính từ chỉ độ đo hình khối bộc lộ thuộc tính nội tại của vật thể, qua đó khắc họa những khó khăn trở ngại của đôi lứa yêu nhau (sông dài - đò ngang, dây vắn - gàu thưa, thuyền dọc - chiếu ngang, nước lớn - đò đầy...) Đồng thời, các tính từ chỉ độ đo cũng biểu trưng cho cái lớn lao, vô cùng, vô tận của “sông rộng - rừng cao”, “non ngất - sông dài”, “núi thẳm - sông cùng”, “núi cao - sông rộng”: Đã sinh ra kiếp đàn ông - Đèo cao, núi thẳm, sông cùng quản chi.

- Các yếu tố miêu tả là tính từ chỉ phẩm chất của vật thể:

Các yếu tố miêu tả là tính từ chỉ phẩm chất của vật thể nhằm cụ thể hóa các vật thể trong thế giới hiện thực như nó vốn có, từ đó gắn với nghĩa biểu trưng mà các yếu tố miêu tả - cụ thể hóa đưa lại. Các tính từ chỉ thể chất thường được ca dao sử dụng để miêu tả tín hiệu vật thể có khi mang nghĩa thực, nghĩa miêu tả: giếng trong - nước hôi phèn, chè ngon - ấm bền, trái chín- trái chua, quả chát- quả ngọt, muối ngọt - chanh chua, lửa mới nhen - trăng mới mọc, ...

- Đôi tay vịn cả đôi cành

Quả chín thì hái, quả xanh thì đừng.

Nhưng phần lớn sự miêu tả bằng các tính từ chỉ phẩm chất của vật thể đều mang hàm ý biểu trưng hoá các vật thể: gừng cay - muối mặn, thuyền tình - 12 bến nước, cam sành - quả quýt hôi, trầu lộc- cau non, trái chín - trái xanh, ngọt quýt- thơm cam, áo rách - áo gấm xông hương, trầu quế - trầu hôi, nước mắm thối- lòng lợn thiu, trời êm- bể lặng, con bò gầy- bãi cỏ hoang,...

Ngay khi tồn tại trong một trạng thái thực với nét nghĩa đen, nghĩa cụ thể nhằm giải thích hoặc nhấn mạnh một đặc trưng nào đấy của các vật thể thì sự miêu tả các vật thể sóng đôi vẫn lại đem lại sự đối lập về giá trị biểu cảm, biểu trưng. Sự đối lập giữa cái tốt, thuận lợi (trong, thơm, ngon, tươi, chín, ngọt, thanh, mát, mới hái, mới mọc, gấm xông hương, êm, tơ,...) với cái xấu, khó khăn (hôi phèn, xanh, già, chua, lạnh, quạnh hiu...), tạo nên những tín hiệu đối lập trong ca dao.

- Chồng ta áo rách ta thương

Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

Đôi khi sự miêu tả thể chất các vật thể sóng đôi càng cụ thể hóa rõ thêm nét tương đồng giữa các vật thể với nhau.

- Đôi ta như lửa mới nhen

Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.

Ngoài trạng thái, phẩm chất thực tế của các vật thể, dân gian còn miêu tả vật thể trong trạng thái tâm lí xã hội với những cách miêu tả “ẩn dụ” tính. Chẳng hạn như: thuyền tình - 12 bến nước, trầu nhân - trầu ngãi, chim
khôn - lưới hồng, ... nhằm miêu tả những vấn đề liên quan đến cả đời sống vật chất lẫn đời sống tình cảm của con người. Chỉ cần gọi tên miếng trầu mà ca dao đã tạo nên những biểu tượng về hạnh phúc lứa đôi. Sự xứng đôi vừa lứa của “trầu loan - trầu phượng”, sự thắm thiết và đạo lý tình yêu của “trầu nhân - trầu ngãi”, sự thông minh chững chạc, duyên dáng của “trầu tôi-trầu mình,
trầu tính - trầu tình trầu mình lấy ta” : Trầu này trầu quế, trầu hôi - Trầu loan trầu phượng trầu tôi trầu mình - Trầu này trầu tính trầu tình - Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình lấy ta.

2.3. Các yếu tố miêu tả là động từ

Các yếu tố miêu tả là động từ gồm khoảng 43 đơn vị miêu tả sóng đôi và 51 lần xuất hiện (trung bình 1,1 lần / đơn vị sóng đôi) chiếm tỷ lệ 23,2% số đơn vị sóng đôi và 19,1 số lần xuất hiện chung các đơn vị miêu tả sóng đôi. Có thể phân các yếu tố miêu tả do động từ đảm nhận thành hai nhóm nhỏ sau:

- Các yếu tố miêu tả là động từ chỉ hướng:

Các động từ chỉ hướng được dùng làm yếu tố miêu tả nhằm cụ thể hóa sự hoạt động của các vật thể, với các biến thể cú pháp linh hoạt và đa dạng: nước ngược - rào xuôi, lên non - xuống thuyền, thuyền ngược - thuyền xuôi, lên thác - xuống ghềnh, lên đèo - xuống hang, xuống khe - lên ngàn, đường ra - lối vào, rồng ngược - mây xuôi, lên thác - xuống ghềnh...

- Đói no em chịu cùng chàng

Xuống sông, ra biển, lên ngàn cũng theo.

Nhóm động từ chỉ hướng hoạt động “ra, vào, lên, xuống” đều có mặt trong sự miêu tả các vật thể sóng đôi; ngoài ra còn có “ngược - xuôi” cũng làm cho sự hoạt động của các vật thể sóng đôi một cách có phương hướng rõ ràng. Khuynh hướng “tiêu cực” trong cách miêu tả sự hoạt động của các vật thể thuộc nhóm này, nổi bật vẫn là sự miêu tả đối lập giữa các tín hiệu. Sự đối lập giữa hợp - tan trong tình yêu đôi lứa cũng chính là sự đối lập: “ngược - xuôi, ra - vào, lên - xuống”: Mấy khi rồng gặp mây đây - Để rồng than thở với mây vài lời - Nữa mai rồng ngược mây xuôi - Biết bao giờ lại nỗi lời rồng mây.

Rơi vào sự miêu tả thuộc nhóm này chủ yếu là các vật thể tự nhiên - địa lý sóng đôi. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự khó khăn cách trở theo hướng “tiêu cực” đều được biểu trưng bằng hình ảnh “lên thác - xuống ghềnh, lên đèo - xuống hang...” đối với con người trong sự lênh đênh trôi dạt giữa cuộc đời.

- Công anh lên thác, xuống ghềnh

Vô trang, ra hội không thành gia thất.

- Các yếu tố miêu tả là động từ chỉ sự hoạt động:

 Các động từ chỉ sự hoạt động các vật thể - sóng đôi nhằm miêu tả những tính chất biến động, những trạng thái vận động, biến đổi của các vật thể - sóng đôi. Cũng như sự miêu tả ở nhóm động từ chỉ hướng, khuynh hướng “tiêu cực” vẫn chiếm ưu thế trong cách biểu hiện về sự vận động, biến đổi của các vật thể, gợi cảm xúc buồn, âu lo của con người trước thiên nhiên biến động: đi nắng - về mưa, kèo rã - cột rời, khóa rớt - chìa rơi, đá nổi - vông chìm, trăng xế - hoa tàn, cây ngả- bờ xiêu, liễu ngả - đào nghiêng, mai gãy - tùng xiêu,…

- Tưởng rằng kèo cột ở đời

Ai ngờ kèo rã cột rời tứ phương.

Trong nhiều trường hợp còn là sự biểu hiện những không gian mang tâm trạng gợi buồn, mang hàm ý biểu trưng cho cái gian nan thử thách, cái cách trở đôi bờ:

- Trèo đèo lội suối qua truông

Đến đây thấy cảnh lòng buồn không vui.

 Trong sự miêu tả hoạt động của các vật thể, nhiều khi vật thể nêu ra với những giả định về tính chất bền vững, vĩnh cửu để so sánh với tình cảm của con người. Thiên nhiên được đưa ra để thề nguyền, ước hẹn: nước chảy - bèo trôi, non mòn - biển cạn, lựu ngả - đào nghiêng, biển cạn - lèn nghiêng, biển cạn- non mòn, dệt gấm - thêu hoa, sông cạn - vàng mòn, cạn sông- lở núi,…

- Trăm năm đá nát vàng phai

Non mòn, biển cạn không phai lời nguyền.

Ý niệm về sự cách trở của dòng sông, cửa biển, giữa đôi bờ ngăn cách, con người phải chinh phục thiên nhiên, phải qua sông, sang sông, đi sông, vượt sông, vượt biển, trèo đèo, lội suối; vì vậy còn là nơi để thử thách lòng người đối với tình yêu và cuộc sống:

- Đồn đây có gái má hồng

Cho nên vượt biển, vượt sông sá gì.

3. Từ sự thống kê, phân loại các yếu tố miêu tả các vật thể sóng đôi trong ca dao, chúng tôi đi đến mấy nhận xét ngắn dưới đây:

- Sự miêu tả trong ca dao cổ truyền Việt Nam nhằm vào các danh từ vật thể trừu tượng cao như núi, sông, biển, trăng, sao, trầu, cau, ... do đó, các yếu tố miêu tả có tác dụng cụ thể hóa các vật thể - sóng đôi trong khi biểu trưng cho một ý nghĩa thẩm mĩ nào đó.

- Ca dao thiên về sử dụng miêu tả bằng tính từ (tính ngữ). Chúng là những “định ngữ một phía” nhằm giới hạn, cụ thể hóa các tín hiệu thẩm mĩ có nguồn gốc từ các vật thể trong ca dao, có chức năng khoanh vùng phạm vi biểu vật và mở rộng phạm vi biểu niệm của các danh từ vật thể - sóng đôi: đôi chiếu lạnh - phòng quạnh hiu, con dao vàng - lá trầu vàng...

- Khảo sát về các yếu tố miêu tả - cụ thể hóa trong ca dao, chúng tôi phát hiện tính khái quát rất cao của các yếu tố miêu tả có tác dụng cụ thể hóa một sự vật, hiện tượng nào đó vì mục đích thẩm mĩ. Hơn nữa, sự miêu tả trong ca dao nói chung không đi sâu nhằm tái hiện thực tại mà thường tập trung cho mục đích biểu trưng hóa sự vật hiện tượng. Các yếu tố miêu tả thường có tính khuôn mẫu, đôi khi ước lệ trong cách miêu tả: trầu loan - trầu phượng, dây trúc - dây loan, chim khôn - lưới hồng, trầu vàng - đôi mâm... Đặc biệt, một yếu tố miêu tả có thể được dùng chung cho nhiều sự vật. Nói “núi cao” mà cũng có thể nói “đèo cao”, “lầu cao”... Nói “sông rộng” mà cũng có thể nói “biển rộng”, “giường rộng”. Nói “đường xa” mà cũng có thể nói “sông xa”, “đồng xa”... Nói “sông sâu” mà cũng có thể nói “hang sâu”, “vực sâu”, “đồng sâu”... Nói “con dao vàng” mà cũng có thể nói “lá trầu vàng”, “mâm vàng”, “sập vàng”, “nhà vàng”, “ánh trăng vàng”, “gió vàng”...

- Một sự miêu tả các tín hiệu vật thể - sóng đôi rất đặc biệt mà chúng tôi thường gặp trong khi khảo cứu là, ca dao dùng một số lượng lớn các yếu tố thành ngữ để miêu tả các vật thể sóng đôi trong ca dao. Đó là “gừng cay - muối mặn”, “sông cạn - đá mòn”, “đá nát - vàng phai”, “non xanh - nước biếc”, “gác tía - lầu hoa”... Các tín hiệu thẩm mĩ có tính thành ngữ này đều có ý nghĩa khái quát, ý nghĩa tổng hợp của toàn cấu trúc. Những cấu trúc này vốn dĩ mang tính biểu trưng của một thành ngữ, giờ xuất hiện trong ngôn ngữ ca dao lại càng ẩn chứa những giá trị biểu trưng có tính bền vững và mang nhiều hàm nghĩa sâu xa.

Nói tóm lại, sự miêu tả - cụ thể hóa các tín hiệu thẩm mĩ trong ngôn ngữ ca dao là một sự miêu tả có tính chất khái quát, nhằm mục đích biểu trưng hơn là chính mục đích của sự miêu tả, tái hiện hiện thực. Do vậy, sự miêu tả các vật thể - sóng đôi trong ca dao chủ yếu là để thể hiện tình cảm thái độ, cảm xúc của con người với thiên nhiên, quê hương, đất nước; về cái lớn lao, cái vĩnh hằng, những thử thách và khó khăn trong tình yêu và cuộc sống... vốn dĩ đôi lúc chỉ tồn tại trong ước vọng và mộng tưởng của người bình dân.

Huế, 07/2008
T.V.S

Các tin khác