Bác Hồ và mùa xuân cách mạng 70 năm trước
NGUYỄN XUYẾN
Tháng 10-1938, Bác Hồ từ Nga trở lại Trung Quốc. Giữa năm 1940, xe tăng của phát xít Hit-le tràn vào Pa-ri, và ngày 20-6-1940, nước Pháp đầu hàng. Đang ở Côn Minh (Vân
Trưa ngày 8-2-1941, đồng chí Vũ Anh ra đón Bác ở chân một ngọn núi đá cạnh mấy đám ruộng vừa mới gặt xong. Mặt trời đã ngả sang chiều thì Bác và các đồng chí Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Lộc, Thế An, Đặng Văn Cáp đã về bên này cột mốc biên giới. Khi đến cột mốc 108 - cột mốc bằng đá như một tấm bia, hai mặt có khắc chữ Trung Quốc và chữ Pháp - Bác dừng lại, cúi đọc những chữ khắc sâu trong đá, rồi hướng tầm mắt nhìn vọng hồi lâu tới dải đất Tổ quốc trùng điệp.
Sau 30 năm đi tìm đường cứu nước, qua nhiều quốc gia ở châu Á, châu Âu, châu Phi, châu Mỹ, Bác Hồ về Tổ quốc vào mùa Xuân Tân Tỵ 1941.
Khi ra đi từ bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn), Bác 21 tuổi, đến khi trở về 51 tuổi, tóc đã hoa râm, song tầm vóc chính trị vượt xa các nhà lãnh đạo cách mạng ở trong nước lúc bấy giờ.
Pác Bó thay mặt Đất Mẹ, đón người con vĩ đại nhất của dân tộc, sau 30 năm xa cách, lần đầu tiên vui Xuân trên mảnh đất thân yêu của Tổ quốc.
"Ôi sáng Xuân nay, Xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về…Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ"
(Tố Hữu)
Pác Bó là nơi đặt chân đầu tiên của Bác khi về nước, và sau đó vẫn là nơi đóng cơ quan của Bác cho đến lúc Bác chuyển về Tân Trào (4 tháng 5 năm 1945).
Pác Bó là một bản nhỏ thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, nằm sát biên giới Việt - Trung, cách thị xã Cao Bằng gần 60 km. Nhân dân trong vùng chủ yếu là người Nùng.
Tài sản của Bác sau bao nhiêu năm đi khắp năm châu bốn biển, giờ đây vẫn chỉ một chiếc va-li con, trong đựng một ít tài liệu quan trọng và một chiếc máy chữ của các đồng chí trong nước gửi cho trước đây.
Trong sương giá lạnh của miền núi đá biên cương, Bác sống và làm việc trong hang Pác Bó. Trong hang, có dòng suối chảy về xuôi và dãy núi đá xanh. Cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ đó đã được Bác thể hiện trong bài thơ "Pác Bó hùng vĩ":
"Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là.
Đây suối Lê-nin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà".
Từ suối Lê-nin, từ núi Mác, ánh sáng cách mạng đã tỏa rộng muôn nơi…
Câu đối dưới đây Bác làm ngay trong rừng sâu Pác Bó đã nói lên mong muốn và quyết tâm của Bác đối với dân, với nước từ những ngày đầy gian khó:
- Nước mới quyết làm cho nước mới
- Non sông Hồng Lạc gấm thêu hoa. (1)
Ở Pác Bó, cuộc sống tuy vô cùng khó khăn, kham khổ, nhưng Bác vẫn ung dung, thanh thản, luôn lạc quan, tin tưởng vào tiền đồ tươi sáng của cách mạng:
"Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Tư thế của nhà thơ là tư thế đứng trên đầu mọi gian khó, hiểm nguy. Bài thơ đã làm sống lại cuộc đời của một nhà hoạt động chính trị bí mật trong thời kỳ cách mạng còn trứng nước. Năm 1961, về thăm lại Pác Bó, Bác xúc động cảm tác:
"Hai mươi năm trước ở hang này
Đảng vạch con đường đánh Nhật Tây;
Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu
Non sông gấm vóc có ngày nay"
Bài thơ bốn câu ngắn gọn đã phác họa con đường lịch sử 20 năm của dân tộc.
Cũng chính tại Pác Bó, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (từ 10 đến 19-5-1941) do Bác triệu tập và chủ trì, họp ở rừng Khuổi Nậm, đã nhận định thời cơ giải phóng dân tộc đang đến gần, quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) để tập hợp lực lượng toàn dân. Hội nghị đã hoàn chỉnh đường lối cứu nước giải phóng dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Rõ ràng, Bác Hồ về Tổ quốc mùa Xuân 1941 là một sự kiện vô cùng quan trọng cho cách mạng Việt