1. Thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở tỉnh Thừa Thiên Huế, giai đoạn 1 (2022 - 2025)        2. Quy định mức thu giá dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục ngoài học phí đáp ứng nhu cầu người học của cơ cở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (Hoàn thành)        3. Phát triển giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Hoàn thành)        4. Đề án “Xây dựng trường trung học phổ thông chuyên Quốc học - Huế trở thành điểm sáng về chất lượng giáo dục trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của cả nước” (Hoàn thành)        5. Quy định mức thu học phí của cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập đối với chương trình đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm học 2023 – 2024 (Hoàn thành)        6. Quy định mức chi công tác tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông; kỳ thi tuyển sinh đầu cấp phổ thông; thi học sinh giỏi các cấp các môn văn hoá; thi chọn học sinh cấp quốc gia và tập huấn học sinh giỏi để dự thi cấp quốc gia; các kỳ thi tập trung cấp tỉnh (Hoàn thành)        7. Đề án "Xây dựng Trường THCS Nguyễn Tri Phương trở thành trường trọng điểm, chất lượng cao        8. Quy định mức thu học phí của các cơ sở đào tạo trung cấp, cao đẳng công lập đối với chương trình đào tạo đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm học 2022-2023 trở đi        9. Xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến 2045        10. Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế        11. Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2020 – 2025        12. Đề án hỗ trợ phát triển Giáo dục người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030        13. Nâng cao chế độ dinh dưỡng phát triển thể lực, tầm vóc trẻ em dành cho học sinh mầm non và tiểu học.       

Búp sen xanh và bông sen vàng

BÚP SEN XANH VÀ BÔNG SEN VÀNG
NHÌN TỪ GỐC ĐỘ TIẾP BIẾN
VĂN HÓA, VĂN HỌC DÂN GIAN
TS. BÙI THANH TRUYỀN

TS. Bùi Thanh Truyền
Trường Đại học Sư phạm Huế

Có những nhà văn dường như dành cả cuộc đời cho một đề tài tâm huyết, dẫu rằng để "thuỷ chung" được với nó, họ đã phải vượt qua không ít những trở lực cả chủ quan lẫn khách quan. Sơn Tùng với hành trình sống và viết những câu chuyện về cuộc đời Bác Hồ là một trường hợp như thế. Với hai tiểu thuyết bề thế Búp sen xanh (BSX)(1) và Bông sen vàng (BSV)(2), người viết đã khẳng định đóng góp cho mảng đề tài này cũng như chỗ đứng vững vàng của ông trong văn học đương đại nói chung, văn học cho thiếu nhi nói riêng. 

Ngoài sự tiếp cận nhân vật từ lăng kính đời thường - thế tục, một thành công dễ nhận thấy của Sơn Tùng trong cả hai cuốn sách là quan niệm mới mẻ về vĩ nhân dân tộc: Tài năng và nhân cách của Hồ Chí Minh, ngoài tố chất thiên bẩm, những nỗ lực cá nhân còn là sự lắng kết, hội tụ vẻ đẹp của truyền thống, nguồn cội. Điều này được thể hiện thông qua một phương pháp có vẻ "ngược hướng" nhưng xem ra rất thuận chiều trong lĩnh vực sáng tác cho trẻ em của tác giả: Khai thác, làm mới những chất liệu dân gian trên cơ sở tôn trọng tối đa tâm lí, thị hiếu của người đọc nhỏ tuổi cũng như quy luật vận động nội tại của cuộc sống mới để khắc họa hình tượng nghệ thuật.

1. Dấu ấn dân gian nhìn từ quan niệm nghệ thuật về con người  

Mặc dù viết về những giai đoạn khác nhau của tuổi trẻ Bác Hồ (Thời thơ ấu, Thời niên thiếu, Tuổi hai mươi), nhưng có lẽ điểm chung - và cũng là ấn tượng mạnh mẽ nhất mà cả BSX, BSV để lại cho người đọc - là quãng đời ấu nhi của Bác khi cùng lúc được sống trên cả hai vùng đất giàu bản sắc văn hóa: Nghệ An và xứ Huế thần kinh văn vật. Ở đó, truyền thống gia đình là dưỡng chất đầu đời hình thành nên nhân cách lớn của Bác sau này. Nguyễn Sinh Cung được sinh ra và nuôi dưỡng trong một mái ấm có bà và mẹ đều là những "bảo tàng sống" về văn học bình dân. Chỉ với một vài câu tục ngữ quen thuộc nhưng đắt giá, nhà văn đã làm bật lên nét đẹp của gia phong và tấm lòng người mẹ - bà Hoàng Thị Loan. Đó là một người phụ nữ "thảo hiền, thương người như thể thương thân. Có một miếng ăn ngon, bà cũng bớt ra chia sớt với bà con láng giềng. Ai đứt bữa, ai tối lửa tắt đèn, bà chìa tay giúp đỡ trong tình lá lành đùm lá rách". Từ mẫu ấy cũng là người luôn lấy câu "giấy rách giữ lấy lề" để khuyên dạy con mình. Chính gia đình, trong đó có vai trò quan trọng của người mẹ, là khởi thủy tạo nên tính cách của con người, đã khắc tạc vào tuổi ấu thơ những nguyên tắc đầu tiên của cuộc đời. Tinh hoa gia đình thanh cao và cả dấu ấn dân tộc hào hùng đã nuôi dưỡng tư cách, phẩm chất, khơi gợi những ước mơ thánh thiện của Bác ngay từ thuở còn thơ. Đây cũng chính là một chủ ý của các tác giả nhằm tô đậm quan niệm rất mới mẻ nhưng cũng rất truyền thống của văn hóa, văn học dân tộc: vĩ nhân, bên cạnh những điều phi thường, cũng chính là một con người bằng xương bằng thịt, được kết tinh từ huyết thống tôn quý, từ tình làng nghĩa xóm, sức mạnh cộng đồng và thời đại.

Có khi mạch sống dân gian lắng trong tiềm thức, vô thức, đi vào cả đời sống tâm linh trở thành chuẩn mực cho cách hành xử tốt đẹp của con người. Đó là cách nghĩ, niềm tin chất phác mà thấm đẫm ân tình về cõi vĩnh hằng của người đã khuất - miền đất nặng trĩu thương yêu trong trái tim người sống: "Con cái ở đâu vong linh ông bà, tổ tiên ở đó"; "Con rất thương nhớ ông. Anh Khiêm của con rất thương nhớ ông. Cha mẹ của các con đều rất thương nhớ ông. Đó là con đường ông ngoại vô Kinh, con ạ". Quan niệm vạn vật hữu linh là hệ quả tất yếu của một cách sống đẹp rất phù hợp và cần cho trẻ nhỏ: hòa hợp, thương mến, trân trọng đồ vật, cây cỏ, thiên nhiên gần gũi quanh mình. Cách bà Loan lí giải cho con trẻ hiểu ý nghĩa việc cúng thần đất, đem bánh tét dán vào tất cả các vật dụng trong nhà, cho vật nuôi các thức ăn của con người… vào ngày mùng một Tết thể hiện lối sống trọng tình, có trước có sau của người lao động: "Cả năm làm đầu tắt mặt tối. Tết là dịp để sum họp mọi người thân trong nhà, trong họ, trong làng và cũng là để nghỉ ngơi, ăn uống ngon hơn thường ngày. Mọi người được ăn ngon, được vui chơi thì phải nhớ đến con trâu, con bò và các đồ đạc, nông cụ đã cùng một nắng hai sương với con người làm ra của cải. Các thứ đó đều vô tri vô giác, nhưng con người phải biết nhớ đến những thứ nớ khi có miếng ăn, tức là tự nhắc nhở mình" (BSV). Đó còn là niềm tin vào điềm gở và sự linh ứng của chúng, là tục thờ ông trời, ông thần nông, ông thổ công, ông bếp… Cả một dòng tín ngưỡng dân gian hội tụ làm nên nền tảng văn hóa tinh thần để thăng hoa bao khát vọng, lí tưởng sống đẹp đẽ, nhân hậu. Sống trong môi trường như thế, lại sớm có ý thức học hỏi, tri ân người thầy dân gian hiền minh mà chân chất, sự tỏa sáng trong tài năng, nhân cách của Hồ Chí Minh sau này cũng là điều hợp lẽ. Văn hóa dân gian chính là thể hiện của những gì quen thuộc, gần gũi với mỗi con người. Người nào được sinh ra, được lớn lên từ cội nguồn văn hóa bình dân ấy thì sẽ luôn đi cùng minh triết dân gian, luôn gắn bó, hướng vọng về đồng bào, Tổ quốc. Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành hội đủ những tố chất này. Đây là cơ sở tạo ra sự song hành giữa hai đặc tính bình thường - phi thường, dung dị mà cao cả trong nhân cách vĩ nhân dân tộc, khiến cho vầng hào quang thần tượng ẩn khuất trong lồng lộng con người.

2. Dấu ấn dân gian trong ngôn từ nghệ thuật

Theo Pôxpêlốp, ngôn ngữ là một trong ba phương diện cơ bản tạo nên sự thống nhất của hình thức tác phẩm. Là hình thức mang tính quan niệm, ngôn ngữ không chỉ có giá trị tự thân, tồn tại độc lập mà nằm trong chỉnh thể nghệ thuật, bị chi phối bởi nội dung phản ánh cũng như nhiều yếu tố khác bên ngoài văn học. Đến lượt mình, sự biến đổi của ngôn ngữ đã trở thành một biến số quan trọng để đo sự vận động, phát triển của một giai đoạn, một dòng văn học nhất định. Ngôn ngữ truyện thiếu nhi thời đổi mới cũng không nằm ngoài quy luật đó. Chỉ có điều, do "kí ức thể loại", sự tương đồng mang tính thẩm mĩ giữa tâm lí, nhận thức trẻ thơ với những sản phẩm giàu tính nhân văn của văn chương truyền miệng,… "từ trường" văn học dân gian đã ảnh hưởng rất rõ đến chất liệu của văn học nói chung, truyện cho thiếu nhi thời đổi mới nói riêng.

Xuất phát từ mong muốn làm nổi rõ mối liên hệ giữa sự hình thành, hoàn thiện nhân cách một vĩ nhân với truyền thống dân tộc như đã nói ở trên, trong cả hai tiểu thuyết, Sơn Tùng đã chủ động khai thác thế mạnh của ngôn ngữ dân gian để khắc họa tính cách nhân vật. Sự gia tăng chất liệu văn học bình dân như một phương tiện đắc lực tạo hiệu ứng thẩm mĩ cho thiên truyện là một cách tân đáng ghi nhận của người viết.

Tần suất của những sáng tác văn học truyền miệng khá cao và thực sự phát huy lợi điểm của chúng trong BSX, BSV. Có những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao được sử dụng nguyên văn: "Sinh con sáng dạ làu làu - Nhớ mẹ ngày trước chăm lau đĩa đèn", "Sinh con quý tử khó nuôi - Trồng cây ngon trái lắm người lăm le", "Nhà có phúc sinh con giỏi lội - Nhà có tội sinh con hay trèo", "Con dại cái mang", "Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà", "Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng",… (BSX); "Oan hồn thì hồn hiện", "Nghe như vịt nghe sấm", "Một miếng khi đói bằng một gói khi no", "Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ vét lá đầu đường", "Bao giờ bánh đúc có xương - Bao giờ mẹ ghẻ lại thương con chồng", "Cha già con cọc", "Không ai giàu ba họ, chẳng ai khó ba đời", "Dẫu thơm dẫu đẹp hoa lài - Đàn bà con gái chớ cài lên khăn", "Người hiền nuôi sói hóa nai - Người ác nuôi thỏ lại lai lợn lòi", "Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một bệnh", "Đưa con vô Nội mất con - Phò mã tốt áo chẳng còn cố tri",… (BSV). Có trường hợp được tái tạo lại dưới dạng lời dẫn gián tiếp - một thành phần trong ngôn ngữ đối thoại của nhân vật: "Con nhà tông, giống lông giống cả cánh", "Ăn vóc học hay… Cái chữ cho con mắt còn cần hơn cả miếng cơm cho cái miệng vậy", "Chúc cháu đi được trơn bọt ngọt lạch, chân cứng đá mềm" (BSX); "Ai đứt bữa, ai tối lửa tắt đèn, bà chìa tay giúp đỡ trong tình lá lành đùm lá rách", "Con nòi của giống, ông cha nói nỏ có sai", "Cậu là con nhà khoa bảng, con nhà thầy, nhà quan mà đến nhà tui, phận bần hàn ni là rồng đến nhà tôm", "Anh em mình nhỏ đầu nên dễ chui, hai anh nhể", "Con phải nhớ câu: "Nhịn miệng thết khách". Không ai lại làm cái việc: "Đãi khách nhẹ dầu tăm, mình ăn gắp nặng đũa". Những kẻ vô tâm mới cắm đầu ăn cho no bụng mình chẳng nghĩ đến phần ai. Nhà mình tuy ít của nhưng biết có miếng ăn chia cho đều, có cái tình thì thương cho khắp. Của ăn thì hết, của cho thì còn. Con nhớ kĩ cái điều ấy" (BSV)…

Chiếm số lượng ít hơn là câu đố: "Thuyền gỗ, chèo sắt, đi dắt về chèo" (cái hộp mực kẻ của thợ mộc); những cách chơi chữ dân gian độc đáo: "Cớ sự vì sao mà cứ sợ - Dời chưng (chân) nỏ được hãy dừng chơi", "Rầu rĩ rầu ri, râu ria ra rậm rạp - Rờ râu râu rụng, răng rứa rõ ra ri"… Có trường hợp nôm na, chân mộc nhưng cũng không ít lúc khởi phát từ những câu nói hàm súc, thâm thúy của người học rộng: "Ẩm thủy tư nguyên" (uống nước nhớ nguồn), "Hữu chí giả, sự cánh thành" (người có chí thì việc ắt sẽ nên). Có câu dẫn ra để minh họa, đồng tình, nhưng cũng có lúc chúng là nguyên cớ cho sự đối thoại, bộc lộ chính kiến, nội tâm nhân vật như lời cậu bé Cung nói với mẹ: "Mẹ ơi, cái tục lệ coi bông hoa lài như cô gái không đứng đắn, nó thế nào ấy? Lại còn gán cho những người đàn bà con gái cài hoa lài lên khăn cho thơm cũng bị coi là người hư hỏng? Sao các cụ, các thầy lại thích uống trà ướp hoa lài? Ồ! Tục lệ ấy ngẫm thấy không hay mà còn dở nữa mẹ ạ" (BSV).

Những đại diện ưu tú của văn học dân gian này vẫn tồn tại đẳng lập bên cạnh những ngôn từ uyên thâm của Nho gia: "Hổ phụ sinh hổ tử", "Dân vi quý, quân vi khinh", "Ti dĩ tự mục, khiêm nhi dũ quang, tiến đức tu nghiệp" (BSX); "Quốc dĩ dân lập", "Dân dĩ quốc tồn", "Cố quốc dân tất ái quốc"; "Ngọc bất trác bất thành khí", "Quân chi thị thần như khuyển mã, tắc thần thị quân như khấu thù", "Háo vấn, tắc dụ, tự dụng, tắc tiểu", "Thập thiên thụ mộc, bách tuế dục tài", "Hoàng thiên bất phụ hảo nhân tâm", "Ngôn dĩ hành nan"v.v… (BSV). Việc vay mượn, sử dụng ngôn ngữ văn chương truyền khẩu phần lớn đều tự nhiên, không gượng ép do đặt đúng chỗ, đúng người và thường cô đọng, hàm súc vì vậy nhiều khi chúng có ưu thế hơn hẳn so với cách nói hiện đại. Chất dân gian đan xen một cách hợp lí, với dung lượng vừa phải góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật, khẳng định căn cốt của sự hình thành nhân cách con người phải từ nguồn cội nước nhà. Điều đó cho thấy quan niệm nghệ thuật tiến bộ của người viết: Con người, đặc biệt là những bậc vĩ nhân, luôn là sự lắng đọng tinh hoa văn hóa của lịch sử cộng đồng; đó là điểm tựa của lí tưởng, lẽ sống, nhờ thế lúc nào, ở đâu trong tâm hồn họ cũng hiện diện rõ ràng một gương mặt quê hương.

3. Dấu ấn dân gian trong kết cấu tác phẩm    

Sự có mặt của lớp ngôn ngữ truyền thống đã tạo ra những thay đổi rất lớn về mặt kết cấu, cốt truyện của văn xuôi thiếu nhi hôm nay. Trong BSX, bên cạnh số lượng các câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao vừa nêu, Sơn Tùng còn đưa vào không ít những truyện thần thoại, cổ tích, truyền thuyết dân gian (Thạch Sanh, Mị Châu - Trọng Thủy, Tống Trân Cúc Hoa, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Truyền thuyết Tướng cụt đầu,…), những câu hát ru, những bài đồng dao của trẻ con, lời ca của những người hát xẩm, thợ thuyền,… Sự có mặt của chúng đã góp phần tích cực trong việc hình thành cách nghĩ, cách sống tốt đẹp, nhân bản ở nhân vật nhờ người viết đã khéo léo tạo ra một mối liên hệ bền chặt giữa quá khứ và hiện tại, giữa trí tuệ hiền minh của cha ông với cái nhìn trong veo của con trẻ. Đây là thổ lộ của Cung khi được sự chiếu rọi của nguồn sáng dân gian: "Nghe mệ kể chuyện Thạch Sanh, ước chi con cũng có phép thần thông, có cây đàn thần thì con cũng sẽ gẩy đàn cho giặc Tây ngủ hàng loạt, thu hết súng ống về, rồi nấu cho chúng một niêu cơm ăn mãi không hết, trải chiếu hoa trên đường, tống tiễn chúng về Tây". Cũng có thể đó là những nghĩ suy của một cậu bé có tấm lòng nhân hậu, "chín" trước trong nhận thức, sớm có ý thức tự tôn dân tộc, luôn đau đáu cho vận mệnh nước nhà: "Truyện Mị Châu - Trọng Thủy hay tuyệt, tài tình lắm. Con nhận thấy vua nhà Triệu nước Tàu nham hiểm ghê gớm. Chàng Trọng Thủy ngoan ngoãn làm theo mẹo của cha bày đặt. Còn vua nhà Thục nước ta lại trọng chữ tín, thành thật muốn hai nước kề nhau có hòa hiếu để dân được sống yên ổn làm ăn. Nhưng vua nước ta lại không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu. Nàng Mị Châu lại ruột để ngoài da. Cha vậy, con vậy thì giữ nước làm sao được? Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng không khinh được vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước chứ không cam chịu nộp mình cho giặc nước" (BSX).

Ở BSV, mạch truyện giãn nở, khi ra xa, lúc về gần nhờ hàng loạt những truyện xưa tích cũ (sự tích Chữ Đồng Tử, các tích trong Tả truyện, chuyện về tiếng "mệ" - một danh từ chung gọi các vương tôn công tử triều Nguyễn), những bài vè dân gian, những câu đồng dao ngộ nghĩnh, những điệu hành vân, điệu hò mái nhì man mác v.v… Không chỉ những người có kiến văn rộng mà người lao động cũng vận dụng thành thạo những câu nói "nôm na mà thâm thúy" trong giao tiếp hằng ngày. Đây cũng là nhân tố quan thiết để Sơn Tùng đa dạng, khách quan hóa điểm nhìn nghệ thuật - một đặc trưng quan trọng của văn xuôi hiện đại. Qua những suy nghĩ của chú phó Tràng, vẻ đẹp trong gia phong, trong từng nết ăn nết ở của gia đình ông Sắc hiện lên chân thực, sống động: "Ăn đũa tre người có học, đừng cầm đũa ngọc của kẻ trọc phú ngu si. Phương ngôn dạy rứa đó bác cử ạ. Mà nghiệm thấy cũng đúng rứa. Từ ngày tôi được ông bà thầy cử đây coi như thân hữu, các cháu quý như người ruột thịt, tui thấy đầu óc mình sáng ra. Như ta thường nói: "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng".

Là những tác phẩm hướng đến đối tượng chủ yếu là người đọc nhỏ tuổi, vì lẽ ấy, Sơn Tùng đã không quên đưa vào hai tiểu thuyết khá nhiều đồng dao - một thể loại văn học dân gian rất phù hợp với tâm lí, nhận thức cũng như đời sống sinh hoạt của các em. Đây có thể là những câu hát vần vè, hồn nhiên bất chợt của tuổi thơ, nhưng cũng có lúc lẩy ra từ kho tàng văn học của người lao động. Bất luận trong hoàn cảnh nào, chúng cũng tích cực tham gia vào việc thể hiện nội tâm nhân vật và thúc đẩy sự vận động hợp lí của cốt truyện. Đó là sự hóm hỉnh, tinh tế của Cung trong lối pha trò đùa vui cho bạn vừa bị ngã đau - một "phương thuốc" khá hữu hiệu trong hoàn cảnh "con trai không dám đụng vào người con gái, dù chỉ ở bàn chân": "Chân hài cao ngất - Vấp trái mù u  - Ngã lăn ra đất - Bàn chân sưng vù - Mệ khóc hu hu…". Là bài học vỡ lòng giản dị mà sâu sắc về lợi ích của việc rèn luyện thân thể: "Bụng béo, chân teo - Thịt nhão bèo nhèo - Ngồi đâu ngủ đó - Không bằng đi bộ - Xương cứng thịt săn - Tỉnh táo mắt thần - Học mau thuộc chữ". Bài vè do Cung ứng khẩu khi vô Nội đã nói với chúng ta rất nhiều về sự trưởng thành của cậu thiếu niên sớm thấy rõ bi kịch của người dân mất nước, quốc gia mất chủ quyền: "Hoàng thành vàng - Đầu vua vàng - Chân lính vàng -

Ngai ngự vàng - Lính gác vàng - Dân đói vàng - Mắt… vàng…vàng…" (BSV). Và khát vọng vượt qua biển lớn, "sự quyết chí ra đi vì nước vì dân" của người thanh niên Nguyễn Tất Thành càng bừng lên mạnh mẽ, quyết liệt khi được "tiếp" năng lượng từ một bài hát ngây thơ của trẻ con bất chợt vang lên giữa một buổi chiều nơi cửa biển Phan Thiết: "Dang dang díu díu - Cánh níu níu nhau - Bay thiệt là mau - Qua trời qua bể (BSX).

Hệ thống văn học truyền khẩu đã phát huy hiệu quả thực sự đối với sự phát triển của mạch truyện, sự khắc họa tính cách nhân vật, hoàn cảnh đặc thù… Chỉ bằng hai câu ca dao, tác giả BSX đã diễn tả khá thành công ý thức giác ngộ, tình hữu ái giai cấp của những người cùng khổ: "Một khi lòng đến với lòng - Dù chênh dù lệch vẫn không nề hà". Lời ca cùng tiếng đàn mộc mạc của ông già Đờn đã khiến "anh Ba sững sờ" và "chạnh lòng bỗng nhớ về cố hương": "Rồng chầu ngoài Huế… Ngựa tế Đồng Nai… Nước sông trong sao lại chảy hoài… Thương người nho sĩ… lạc loài… đến đây…". Tương tự như thế, để diễn tả sự thức nhận về sức mạnh của cộng đồng, niềm tự hào về dòng giống tiên rồng luôn thường trực ở nhân vật, người viết đã phải "tựa" vào minh triết dân gian khi để thầy giáo Nguyễn Tất Thành cắt nghĩa truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ cho học trò: "Các truyền thuyết thường tưởng tượng hoang đường, vì nó bắt nguồn từ trong đời sống xã hội con người thời hoang sơ, nhưng truyện nào cũng đều có ý nghĩa giáo dục. Cái bọc ấy chính là lòng mẹ. Chung một lòng mẹ, nghĩa là cùng một nòi giống. Vì vậy mà dân ta có hai tiếng nghe rất thiêng liêng, đó là… Đồng Bào. Có nghĩa là cùng bọc, cùng một dòng máu (…) Còn sự tích một nửa số người đi lên ngàn, một nửa số người đi xuống bể, nó nói lên người Việt mình đã trải bao mưa nắng, người đi phương này, kẻ đi nơi kia để khai phá, mở mang bờ cõi, dựng xây đất nước. Nước Việt Nam ta được như ngày nay ta đừng quên công lao của bao đời đã đổ mồ hôi và máu. Người ta thường nói : "Tình Tổ quốc, nghĩa đồng bào" là từ gốc tích ấy". Trong nhiều hoàn cảnh, ngôn ngữ, cách giao tiếp trực diện của nhân vật dường như bất lực thì tác giả dân gian đã kịp thời có mặt, giúp họ "gỡ rối tơ lòng". Những lời ca dao vọng về trong tâm trạng ngổn ngang trăm mối của Út Huệ trước lúc anh Ba đi xa là một ví dụ: "Khăn thương nhớ ai mà khăn rơi xuống đất - Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt - Mắt thương nhớ ai mà mắt không khô…" (BSX).

Với kĩ thuật lắp ghép cốt truyện, kết cấu, mỗi tiểu thuyết giống như một kính vạn hoa, có thể thu vào rất nhiều mặt của hiện thực cuộc sống. Ngoài việc nới rộng biên độ nhận thức của người đọc, tác phẩm còn giúp cho độc giả, nhất là thiếu nhi, không cảm thấy chán vì phải thưởng thức một món ăn tinh thần độc vị, đơn điệu. Đây cũng là nhân tố để nhà văn tô đậm tính cách của cậu bé Nguyễn Sinh Cung: Một con người luôn khát khao học hỏi, ham hiểu biết, một nhân cách lớn được bồi đắp nên bằng chính tinh hoa văn hóa của ông cha. Đó là sức mạnh tinh thần to lớn để nhân vật "đứng vững dáng Con Người giữa cuộc đời khổ ải". Điều này hơn một lần được hé lộ khi Sơn Tùng mượn lời người cha - ông Nguyễn Sinh Sắc - gởi gắm tới đứa con sắp ra đi tìm đường cứu nước: "Khi đi xa đất nước, con hãy nhớ, hãy nghĩ về những điều bình thường ấy, con sẽ thấy trong tâm hồn mình cả một quê hương, cả một dân tộc…" (BSX).

Thành công của hai tiểu thuyết cho thấy năng lực "luyện đan ngôn ngữ" của người viết. Ít xảy ra trường hợp vênh lệch, gượng gạo, sự hòa kết giữa hai dòng dân gian và hiện đại trong ngôn từ nghệ thuật đã tạo đà để câu chuyện phát triển tự nhiên, giọng văn gần gũi bởi mang đậm bóng dáng cuộc đời của người lao động chân chất, nghĩa tình mà cũng rất đỗi anh hoa. Cái duyên của Sơn Tùng là biết cách vận dụng, cài đặt đúng chỗ, đúng người, đúng việc nhờ vậy mạch truyện không bị cắt vụn, không sa đà rào đón dài dòng mà rất liên hoàn, thuyết phục. Chỉ bằng vài câu ca dao xuất hiện ở đầu và cuối tác phẩm, người viết một mặt thể hiện được quan niệm của mình trước một vấn đề rất khó nói, rất dễ sa đà vào lập luận khô khan: Tư tưởng lấy dân làm gốc; đồng thời cũng cho thấy sự phát triển nhất quán của tâm lí nhân vật từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, từ ngây thơ, hồn nhiên đến căm phẫn, trở trăn trong ý thức trách nhiệm: "Dân vạn đại, quan nhất thời - Ghế quan ai ngồi xin chớ thờ ơ - Thương dân, dân lập đền thờ - Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương"; "Muôn dân một lũ cơ hàn - Vua ngồi chễm chệ ngai vàng hiếp dân" (BSX). Nguyên nhân thành công của thủ pháp lắp ghép tài tình này là bởi tác giả cũng như những đứa con tinh thần của mình "luôn luôn gần người biết đi dưới ánh sáng của nhân dân" (BSV). Chính vì thế, tính giáo dục được nâng lên một mức cao hơn nhưng vẫn rất dung dị, phù hợp với tầm đón nhận của người đọc.

Cuộc đời một Con Người Huyền - Thoại của Bác là nguồn cảm hứng bất tận đối với nghệ sĩ. Xét từ góc độ văn học, mỗi thời đoạn, do những thay đổi khách quan của đời sống xã hội cũng như những chuyển biến chủ quan trong nhận thức, quan niệm của người viết, đề tài anh hùng, lãnh tụ nói chung, Bác Hồ nói riêng, được nhìn nhận, tái hiện ở những phương diện không hoàn toàn giống nhau hòng đem lại cho người đọc một cái nhìn toàn diện và chân xác về con người, hiện thực cuộc sống. Khai thác, phục sinh và làm mới di sản văn hóa, văn học truyền thống, tạo cho chúng một y trang cổ xưa mà hiện đại là một nỗ lực đáng trân trọng của nhà văn hôm nay. Trên tinh thần ấy, công cuộc kiếm tìm những phương cách hữu hiệu để thay đổi diện mạo văn học Việt Nam đương đại ghi nhận những cống hiến của Sơn Tùng thể hiện qua hai sáng tác sẽ còn đi mãi cùng độc giả: Tiểu thuyết BSX, BSV .

B.T.T

Các tin khác