Mối quan hệ tràu cau
TRIỀU NGUYÊN
1. Trong các nghi lễ kết hôn, trầu cau là một lễ vật quan trọng hàng đầu. Lễ dạm, hỏi (nay gọi là lễ đính hôn), thường được gọi là lễ bỏ trầu. Hiện nay, ở Thừa Thiên Huế và một số địa phương khác, vẫn còn tục: Các lễ lớn như lễ hỏi, lễ ra mắt họ nội, họ ngoại cô dâu (lần đầu tiên), lễ cúng ông Tơ bà Nguyệt,... phải có mâm trầu cau (tươi hay khô); các lễ nhỏ như thọ ngôn (chịu lời), xin giờ, xin dâu... đều phải có đĩa trầu cau têm sẵn. Trong điều kiện lễ vật ở mức đơn giản nhất, thì trầu cau cũng không không có, tục ngữ nói "Ba miếng trầu làm dâu nhà người", một phần là vì vậy.
Trầu cau ngoài việc là một thức ăn và có ý nghĩa khái quát là một sự kết hợp, hoà lẫn nhằm tạo nên điều thi vị, có tự thân chúng cũng có sự tương quan nào đó với mối quan hệ vợ chồng chăng? Bài viết nhỏ này nhằm trình bày về biểu tượng "trầu cau" trong văn học, chủ yếu là văn học dân gian.
2. Thật khá bất ngờ khi không chỉ bắt gặp một tương quan nhất định, mà là một sự biểu thị về mối quan hệ tương ứng, giữa "trầu cau" và "vợ chồng", ở các loại văn học, như những trình bày dưới đây.
- Trong đồng dao:
(1) Ru ru riến riến rà rà
Võng ông đi trước, võng bà đi sau
Võng ông đi trước hàng cau
Võng bà thủng thỉnh đi sau hàng trầu.
Có mối quan hệ giữa "ông" với "cau", "bà" với "trầu": võng ông đi trước hàng cau; võng bà đi sau hàng trầu.
- Trong câu đố:
(2) Ả hợp cùng anh
Duyên ưa phận đẹp
Chồng có phép giơ bụng ra ngoài
Vợ có tài thắt lưng cho gọn.
(3) Chồng trắng vợ xanh
Đẹp mặt duyên anh
Giao loan chi kết
Chồng ngồi hở hết
Để ruột ra ngoài
Vợ mặc áo dài
Thắt que tròn trặn.
Hai lời đố đều cùng đố về miếng cau và miếng trầu. "Miếng cau" được gọi là "chồng": "chồng" bày bụng ruột ra ngoài (cau khi bổ thành miếng, sắp lên đĩa, đặt phần "ruột" lên trên, phần vỏ ở dưới); "miếng trầu" được gọi là "vợ", "vợ" thắt lưng cho gọn, cho tròn trặn (trầu têm được gấp lại và chặn giữ bằng cuống lá ở giữa) (1).
- Trong ca dao:
(4) Bên anh dư đất trồng cau
Cho em xin một miếng, trồng trầu một bên.
(5) Anh về cuốc đất trồng cau,
Cho em trồng ké dây trầu một bên
Mai sau trầu nọ lớn lên
Cau kia ra trái, làm nên cửa nhà.
(6) Đôi tay nâng lấy cơi trầu
Miếng trầu không là vợ, miếng cau là chồng.
(7) Bây giờ em mới hỏi anh
Trầu vàng nhá với cau xanh thế nào?
- Cau xanh nhá với trầu vàng
Tình anh sánh với duyên nàng đẹp đôi.
"Anh" thì trồng "cau", "em" thì trồng "trầu" (4), (5); cau trầu kết đôi thành chồng vợ: "cau", "cau xanh" hay "miếng cau" là "chồng"; "trầu", "trầu vàng" hay "miếng trầu" là "vợ" (6), (7).
- Trong thơ hiện đại, có dẫn bốn dòng cuối bài "Tương tư" của Nguyễn Bính:
(8) Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
"Giàn giầu" thì thuộc "nhà em", còn "hàng cau" thì của "nhà anh".
Qua tám văn bản (hay trích đoạn văn bản) trên, đã có nói về mối quan hệ giữa "trầu cau" và "vợ chồng": "Trầu cau" được dùng để chỉ "vợ chồng", trầu ứng với người vợ, hay cô gái đang yêu, cau ứng với người chồng, hay chàng trai đang yêu.
Ở trên, là mối quan hệ tương ứng theo lối tường minh, "trầu cau" trực tiếp chỉ ra hay gọi thay quan hệ "vợ chồng". Dưới đây, là các mối quan hệ tương ứng theo lối hàm nghĩa, chúng được nhận ra qua một vài phương thức tu từ, phần lớn là ẩn dụ. Những trích dẫn dưới đây xuất phát từ ca dao, theo hai nhóm: "trầu", "cau" được dùng riêng rẽ; và "trầu cau" được dùng theo lối kết hợp.
- "Trầu", "cau" được dùng riêng rẽ:
"Trầu" dùng riêng rẽ:
(9) Nhà em có bụi trầu cay
Nhà anh có khách sang vay lá vàng...
(10) Trồng trầu hai ngọn cheo leo
Để anh đi cưới, đừng theo bạn cười.
(11) Trồng trầu thả ngọn cheo veo
Vợ cưới chưa chắc, vợ theo chắc gì?
(12) Trồng trầu trồng lộn với tiêu
Con theo hát bội, mẹ liều con hư.
Bụi trầu cay của nhà em, nhà anh sang vay "lá vàng" từ nó (9). Có một mối liên quan giữa việc "trồng trầu" với việc anh "đi cưới", ở (10), (11), do ngọn trầu "cheo leo" hay "cheo veo", tức có điều không bình thường (điều bất thường ấy là "trầu" đòi theo anh). "Trầu" với "tiêu" có dáng dấp na ná nhau, con theo hát bội, tức con là loại "trầu pha tạp", là đứa hư (12). Một dị bản của bài này, thay vì "con theo hát bội" là "con đi đò dọc". Thông thường, các bà mẹ lo lắng con hư trong hai trường hợp vừa nêu hoặc tương tự, thì đứa con ấy không phải là con trai (2).
"Cau" dùng riêng rẽ:
(13) Cau tơ mới lổ nửa buồng
Anh chưa có vợ như tuồng có con.
(14) Người ta lấy vợ đông tây
Thân anh ở vậy như cau không buồng
Cau không buồng tháng hai lại có
Anh ở vậy hoài như chó cụt đuôi.
Cau mới trổ nửa buồng thì chưa phải là "cau trưởng thành", nhưng cũng không phải là "cau non"; cũng như anh chưa vợ nhưng trông hơi lớn (như người đã có con), thật khó xét đoán (13). Anh không vợ (dĩ nhiên, là không có con) cũng như cau không buồng, chẳng giống ai (14). Anh chưa vợ và anh ở vậy không chịu lấy vợ, được so sánh với loại "cau lỡ dở", "cau không buồng", rất trái lẽ, vô duyên.
- "Trầu", "cau" được dùng kết hợp:
(15) Thương nhau hẹn lại năm sau,
Cho trầu ra lộc, cho cau trổ buồng.
(16) Bây giờ trầu lại gặp cau
Cũng mong ta ở với nhau một nhà
Bây giờ bướm lại gặp hoa
Xin đừng trở ngại gần xa mọi đường.
(17)
Ngộ tình cờ gặp gỡ nhau đây
Chậu sành chữ nhật, trồng cây cửu quỳ.
(18) Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau khô ăn với trầu vàng xứng không?
(19) Vắng quan dám hỏi cô hầu
Vú cau ăn với cạnh trầu nên chăng?
(20) Trầu vàng ăn với cau sâu,
Lấy chồng thua bạn thêm sầu mà hư.
Hai người đã thương nhau mà lại hẹn năm sau, để "trầu ra lộc", "cau trổ buồng", tức để "trầu", "cau" phát triển (15). Có lẽ không phải chuyện chờ hái trầu cau để làm lễ cưới (vì trầu cau không bao giờ đắt đỏ - "Ba đồng một mớ trầu cay; Sao không đi hỏi những ngày còn không?..." (ca dao) - và với cau, nếu không có dạng tươi thì luôn sẵn dạng khô). Đặt trong bối cảnh tục tảo hôn, cùng việc quan hệ nam nữ rất sớm ngày trước, có nghĩ đến chuyện hẹn năm sau để "trầu", "cau" phát triển, là thêm thời gian để đôi bên gái, trai có cơ ra người lớn hơn (nói theo phương ngữ xứ Huế, là "ra mã"). "Trầu", "cau" gặp nhau, cũng như "bướm" - "hoa", "chậu sành" - "cây cửu quỳ" hội ngộ, mong được đoàn viên (16), (17). Ba bài cuối đều nói đến việc "cau", "trầu" ăn chung với nhau. Khi chưa ăn, thì nêu việc ăn ấy có xứng không (18), (19) - các cặp: "cau khô" với "trầu vàng", "vú cau" với "cạnh trầu"; khi ăn rồi mới biết "cau" mà mình ăn là "cau sâu", và nêu hình ảnh tương ứng là "lấy chồng thua bạn" (20).
Như vậy, trong trường hợp dùng riêng rẽ, "trầu" là một ẩn dụ chỉ người con gái đang muốn lấy chồng (hay có người muốn lấy); "cau" là vật để so sánh với anh con trai đang có vấn đề về chuyện lấy vợ (ở đây, là muộn vợ, hoặc không chịu lấy vợ); trong trường hợp dùng kết hợp (mà không trực tiếp chỉ định đối tượng liên quan), thì "trầu cau", "cau trầu" là ẩn dụ chỉ hai vợ chồng hay đôi trai gái đang hướng đến hôn nhân. Khi xét cấu tạo tự thân "trầu cau" ở các bài dùng kết hợp, thì chỉ hai bài (17) và (20) là có suy được: bài (17), "trầu đầy" chỉ cô gái tràn trề sức xuân, "cau say" chỉ chàng trai mà cô gái nọ muốn kết đôi; bài (18), "trầu vàng" chỉ cô vợ, "cau sâu" chỉ anh chồng kém cỏi của cô ta - nói theo yêu cầu đang đặt ra: "trầu" là ẩn dụ chỉ người vợ (hay cô gái sắp được làm vợ), "cau" là ẩn dụ chỉ người chồng (hay chàng trai sắp được làm chồng).
Những trình bày trên cho thấy, quan hệ giữa "trầu cau" và "vợ chồng", hoặc được biểu thị theo lối chỉ định trực tiếp (quan hệ tương ứng: "trầu" chỉ vợ, "cau" chỉ chồng), hoặc qua phương thức so sánh (anh không vợ như "cau không buồng"), hoặc qua phương thức ẩn dụ ("trầu cau" chỉ vợ chồng; và khi phân tách, thì "trầu" chỉ vợ, "cau" chỉ chồng). Mối quan hệ này được tuân thủ khá triệt để, và tương đối phổ biến (trừ trường hợp so sánh).
Cơ sở để tạo ẩn dụ "trầu" chỉ vợ, "cau" chỉ chồng là gì? Xét kết hợp, thì đó là sự tương đồng giữa việc "nhai" trầu cau tạo nên chất cay nồng thú vị, cùng sắc màu đỏ thắm, gây hưng phấn lòng người, là tình cảm khăng khít, say đắm bên nhau, tồn tại vì nhau của quan hệ vợ chồng. Bên cạnh đó, cũng xét thêm các yếu tố có tính chất "bàng hệ", thuộc quan niệm và tập quán, như "Truyện cổ tích trầu cau" (người chồng chết hoá thành cây cau, người vợ hoá thành dây trầu, quấn quanh thân cau,...); tập quán ăn trầu, tiếp khách bằng trầu; dùng cau trầu làm lễ vật chính trong nhiều nghi lễ quan trọng (như tế thần, giỗ tổ, tạ ơn, viếng người chết,...);...
Mặt khác, chúng ta đều biết rằng, khi một ẩn dụ (hay hoán dụ) được sử dụng đến mức quen thuộc, thì nó trở thành tượng trưng (cũng gọi là biểu tượng). Nếu ẩn dụ (và hoán dụ) là sản phẩm của cá nhân, chỉ có giá trị trong văn cảnh, thì tượng trưng mang tính cộng đồng, có giá trị tương đối ổn định (tất nhiên, chủ yếu là với các sáng tác văn học). Chẳng hạn, khi nói hình ảnh con cò lặn lội trong ca dao xưa chính là bóng dáng của người phụ nữ lam lũ ngày trước, hay con cò trong ca dao là một biểu tượng chỉ người phụ nữ ở nông thôn Việt Nam, thì điều tất yếu là hình ảnh con cò đã được ca dao dùng làm ẩn dụ phổ biến.
Đến đây, đã có nói: Trong văn chương (chủ yếu là văn chương dân gian), "trầu cau" được dùng với tư cách biểu tượng để chỉ vợ chồng hay người sắp thành vợ thành chồng, và trong quan hệ ấy, "trầu" chỉ người vợ, "cau" chỉ người chồng. Biểu tượng này vừa dùng dạng riêng rẽ: "trầu", "cau", vừa dùng dạng kết hợp: "trầu cau" / "cau trầu" (dù dùng ở dạng nào, cách ẩn dụ vẫn nhất quán trong tổng các sáng tác liên quan), là một biểu tượng kép (3).
T.N