1. Thực hiện lộ trình nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, tiểu học, trung học cơ sở tỉnh Thừa Thiên Huế, giai đoạn 1 (2022 - 2025)        2. Quy định mức thu giá dịch vụ phục vụ, hỗ trợ hoạt động giáo dục ngoài học phí đáp ứng nhu cầu người học của cơ cở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế (Hoàn thành)        3. Phát triển giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Hoàn thành)        4. Đề án “Xây dựng trường trung học phổ thông chuyên Quốc học - Huế trở thành điểm sáng về chất lượng giáo dục trong sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục của cả nước” (Hoàn thành)        5. Quy định mức thu học phí của cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông công lập đối với chương trình đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế năm học 2023 – 2024 (Hoàn thành)        6. Quy định mức chi công tác tổ chức kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông; kỳ thi tuyển sinh đầu cấp phổ thông; thi học sinh giỏi các cấp các môn văn hoá; thi chọn học sinh cấp quốc gia và tập huấn học sinh giỏi để dự thi cấp quốc gia; các kỳ thi tập trung cấp tỉnh (Hoàn thành)        7. Đề án "Xây dựng Trường THCS Nguyễn Tri Phương trở thành trường trọng điểm, chất lượng cao        8. Quy định mức thu học phí của các cơ sở đào tạo trung cấp, cao đẳng công lập đối với chương trình đào tạo đại trà trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế từ năm học 2022-2023 trở đi        9. Xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến 2045        10. Phát triển giáo dục vùng dân tộc thiểu số tỉnh Thừa Thiên Huế        11. Bảo đảm cơ sở vật chất cho chương trình giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông giai đoạn 2020 – 2025        12. Đề án hỗ trợ phát triển Giáo dục người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030        13. Nâng cao chế độ dinh dưỡng phát triển thể lực, tầm vóc trẻ em dành cho học sinh mầm non và tiểu học.       

Quan điểm giáo dục của Khổng Tử

QUAN ĐIỂM GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

NGUYỄN THỊ HOA PHƯỢNG
Trường THPT Hai Bà Trưng

Lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo với nội dung, tính chất và vai trò lịch sử của nó luôn là đề tài hấp dẫn đối với những nhà nghiên cứu. Có thể khẳng định rằng, một học thuyết ra đời cách đây hơn 2.500 năm đã được sự kiểm chứng bởi thời gian thì giá trị của nó về mặt lý luận và thực tiễn là điều chúng ta hết sức quan tâm. Một trong số những vấn đề nổi bật rất được quan tâm nghiên cứu đó là triết lý giáo dục của Khổng Tử và vận dụng một số quan điểm giáo dục của ông vào công tác giáo dục hiện nay ở trường Trung học phổ thông.

Khổng tử là người được tôn xưng là "Vạn thế sư biểu" - Người thầy của muôn đời. Tư tưởng của ông cần được kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống của nó, trong đó, việc kế thừa và vận dụng những quan điểm về giáo dục của ông có ý nghĩa quan trọng nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục hiện nay ở trường phổ thông. Đồng thời góp phần quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về việc phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là "động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội". Đó là "con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức". Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường phổ thông hiện nay, nhà giáo dục hiện đại có thể kế thừa và vận dụng những quan điểm của các nhà giáo dục tiền bối vào công tác giáo dục của mình, trong đó không thể thiếu những tư tưởng của nhà giáo dục lớn của phương Đông - Khổng Tử.

Khổng Tử là bậc thầy của muôn đời, là một nhà giáo dục lớn, tư tưởng của ông đã gây ảnh hưởng khá sâu sắc đến các thế hệ sau này. Ông sinh ra và lớn lên ở thời Xuân Thu - thời kỳ rối ren, loạn lạc trong lịch sử Trung Quốc cổ đại. Đó là thời đại mà theo ông "Lễ nhạc hư hỏng", "Vương đạo suy vi", "Bá đạo" nổi lên lấn át "Vương đạo", trật tự lễ pháp nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi, "thiên  hạ đại loạn", trăm dân rơi vào bể khổ. Ông chủ trương lập lại pháp chế, kỷ cương của nhà Chu. Hệ thống tư tưởng của ông về thế giới, về xã hội, về con người có ảnh hưởng sâu sắc đến tính cách con người, tâm lý dân tộc Trung Hoa và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của văn hóa phương Đông.
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo nên chúng ta có thể tiếp thu và vận dụng những quan niệm trong triết học lý giáo dục của Khổng Tử vào công tác giáo dục nhân cách con người mới ở Việt Nam hiện nay mà đặc biệt là đối tượng học sinh Trung học phổ thông.
 Đối với đức Khổng Tử thì đối tượng giáo dục là "hữu giáo vô loài" (Bất cứ ai, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn đều có thể dạy) [6, tr 32].

Quan niệm này mặc dù xuất phát từ một nhà giáo dục lớn ở thời cổ đại, nhưng có thể nói nó hoàn toàn phù hợp với xã hội ta, với công tác "phổ cập giáo dục", "xã hội hóa giáo dục" hiện nay. Trong suốt cuộc đời làm thầy của mình, bên cạnh việc dạy chữ, bao giờ Khổng Tử cũng chú trọng vào việc dạy người. Tư tưởng nội dung của học thuyết mà Khổng Tử áp dụng vào giáo dục mang tính nhập thế và tích cực. Khổng Tử đã nhận định tính chất của giáo dục là cải tạo nhân tính cho nên ông cho rằng giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với Khổng Tử nhân tính hòa lẫn giữa thiện và ác. Theo ông, thiện ác của nhân loại đều do phần giáo dục quyết định, ông khẳng định rằng: "con người bằng nỗ lực chủ quan của mình cũng có thể làm thay đổi cái Thiên tính ban đầu" [6, tr 31]. Ông quan niệm rằng tính người vốn gần nhau nhưng do tập quán nên xa nhau (Tính tương cận dã, tập tương viễn dã). Do đó, "muốn cho nhân loại gần nhau thì phải chú ý đến giáo dục, vì giáo dục có thể hóa được ác thành thiện, cho nên cũng gọi là giáo hóa" [5, tập 1, tr 256]. "Phải có giáo dục để tu sữa cái đạo làm người (Tu đạo chi vị giáo), "Đại học chi đạo tại minh minh đức" (Cái đạo làm người lớn ở chỗ làm rạng cái đức sáng). "Tu đạo" và "Minh đức" đấy là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân tính theo Khổng Nho" [ 5, tập 1, tr 256]. Với Khổng Tử, con người lúc sinh ra, cái tính trời phú cho là giống nhau nhưng trong quá trình tiếp xúc, học tập... nó làm cho họ khác nhau, có kẻ trí người ngu. Sau này Hồ Chí Minh cũng có nhận xét tương tự: "Ngủ thì ai cũng như lương thiện, tỉnh ra mới biết kẻ dữ hiền, hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên" (Nhật ký trong tù). Vậy nên, sự hình thành nhân cách con người mới, nhất là đối tượng học sinh trung học phổ thông, không thể không nhấn mạnh vai trò của giáo dục.

Khổng Tử quan niệm giáo dục không chỉ để cải tạo nhân tính ở chỗ mở mang trí thức, giải thích vũ trụ mà ông chú trọng đến nhân cách đầy đủ, "lấy giáo dục để mở mang cả trí, tình lẫn ý cốt sao dạy người ta trở thành con người đạo lý. Với Khổng Tử thì bất cứ một cá nhân có thiên tài lỗi lạc như thế nào nếu không để cho giáo dục uốn nắn thì không có thể thành một nhân cách hoàn toàn được. Có thể nói quan niệm này của Khổng Tử nếu đặt trong bối cảnh xã hội hiện nay vẫn còn giá trị. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, việc giáo dục học sinh không chỉ dừng lại ở "trí, nhân, dũng" mà giáo dục mang tính toàn diện hơn: giáo dục tri thức, đạo đức, thể chất, thẩm mỹ, giáo dục truyền thống, tư tưởng, đạo đức, nếp sống .v.v...

Là một con người suốt đời "học không chán, dạy người không mỏi", lúc nào cũng chỉ muốn đem cái đạo của mình ra giúp người và giúp đời, ông quan niệm "đạo trời có bốn đức lớn là: nguyên, hanh, lợi, trinh; đạo người bởi đó cũng có bốn đức là: nhân, nghĩa, lễ, trí". Trong bốn đức ấy, đức "Nhân" được Khổng Tử nhắc đến nhiều nhất trong Luận ngữ, điều đó cho thấy ông luôn đề cao chữ Nhân. "Nhân" được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua "Lễ", "Nghĩa", quy định quan hệ giữa người và người từ trong gia tộc đến ngoài xã hội. "Nhân" có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác trong triết học Khổng Tử để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ. Vì thế mà có người cho rằng: "Nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì Nhân là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người"

[1, tr 2]. Ngày nay, chế độ xã hội đã khác trước, con người cần một thứ nhân đạo chủ nghĩa phù hợp với thời đại mình, nhưng không phải vì vậy mà tư tưởng "Nhân" của Khổng Tử không còn có ý nghĩa. Xã hội ngày nay vẫn còn những người nghèo khó, đói rét, cô đơn, bất hạnh, những con người này rất cần đến sự quan tâm, thông cảm, giúp đỡ của người khác và của cả cộng đồng. Do vậy, tư tưởng "Nhân" là yêu người của Khổng Tử vẫn còn có thể phát huy tác dụng. Trong phạm vi giáo dục con người, vấn đề này càng trở nên có ý nghĩa sâu sắc.  Để có những thế hệ học sinh mà trong bước trưởng thành của các em sẽ hình thành nên những nhân cách cao đẹp, thì trước hết hãy dạy cho các em những điều bình thường nhất để làm người, đó là "biết yêu thương" người khác, mà trước hết là yêu cha mẹ ông bà, yêu bạn bè, thầy cô... phải biết đồng cảm và giúp đỡ những người bất hạnh, biết quan tâm những người xung quanh, có trách nhiệm với bản thân mình và cộng đồng xã hội.

Khổng Tử còn cho rằng muốn đạt được "Nhân" còn phải thông qua tu dưỡng theo "Lễ"; một người nhân ái phải căn cứ vào yêu cầu của lễ để hài hòa với thế giới bên ngoài. Khi Nhan Hồi hỏi: "Người không nói, không phải lễ không làm, nhân ái cụ thể cần phải làm gì?". Khổng Tử đáp: "Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính, phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động" (không phải lễ không nhìn, không phải lễ không nghe, không phải lễ không nói, không phải lễ không làm). Lễ là lễ nghi thể hiện các quy phạm đạo đức. Lễ mà Khổng Tử nói đến là lễ nghi và những quy tắc đạo đức thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Tuy "Lễ" mà Khổng Tử xây dựng có từ thời nhà Chu, song không phải vì vậy mà nó không có giá trị về mặt thực tiễn trong công tác giáo dục hiện nay. Ngay khi vào lớp một học sinh đã được dạy: "Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra ...", "Tiên học Lễ hậu học Văn"... Trong chương trình giảng dạy bộ môn Giáo dục công dân hiện nay, ở mỗi cấp học, bậc học, học sinh được học những chuẩn mực đạo đức phù hợp với lứa tuổi, góp phần hình thành một nhân cách khá hoàn chỉnh, có khả năng giao tiếp và ứng xử một cách lễ độ và hoà nhã. Tuy nhiên do ảnh hưởng bởi mặt trái của cơ chế thị trường, ảnh hưởng bởi cuộc sống "số", bằng cấp, lương bổng nên nhiều phụ huynh học sinh đã quá chú trọng đến giáo dục "trí tuệ" cho con em mà vô tình quên đi cái "đức", quên đi hoặc xem nhẹ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín... Vì vậy mà không hiếm những trường hợp học sinh vi phạm kỷ luật nhà trường, vi phạm pháp luật Nhà nước, ứng xử không có phép tắc, lễ nghĩa với cha mẹ, thầy cô bạn bè... Do vậy việc giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh hiện nay càng trở nên đáng quan tâm hơn. Gặp người lạ tiếp đón bằng "lễ", tay bắt mặt mừng, mến khách và luôn giữ "lễ". Thấy người quen chào nhau cũng một lòng theo "lễ". Khi vui, khi giận dằn lòng giữ "lễ"... Trong gia đình, ngoài xã hội mọi người đều giữ "lễ", đối xử với nhau bằng lòng "nhân"... để cái đẹp của người Việt qua mấy ngàn năm lịch sử không xa rời những nét đẹp của truyền thống văn hóa, đạo đức. Điều đó cho thấy những nét đẹp trong quan niệm "nhân","lễ"... của Khổng Tử được nhân dân Việt Nam tiếp nhận từ xưa cho đến bây giờ vẫn còn những giá trị sâu sắc.

Tuy nhiên, đối với Khổng Tử, ông chủ trương "Tác dụng của "lễ" là lấy hòa làm quý" (Lễ chi dụng, hòa vi quý)... [7, tr 29]. Để xoa dịu và điều hòa mâu thuẫn giai cấp, ông tuyên truyền "an bần nhi lạc" và khuyên người dưới hãy an phận, không oán trách. Ông kịch liệt phản đối sự đấu tranh, dù là của quần chúng nghèo khổ vùng lên hay giữa giai cấp thống trị với nhau... Ở góc độ này, đứng trên lập trường của Chủ nghĩa duy vật biện chứng chúng ta thấy rằng, Khổng Tử đã không vạch ra được phương pháp giải quyết mâu thuẫn và cách thức của sự phát triển mà chủ trương "điều hòa mâu thuẫn", ở đây đòi hỏi nhà giáo dục phải thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và vận dụng các quy luật của phép biện chứng duy vật trong cách nhìn nhận, xem xét và giải quyết vấn đề. Điều đó cũng có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hình thành thế giới quan và phương pháp luận cho học sinh, đặc biệt là học sinh Trung học phổ thông hiện nay.
Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh sự cần thiết phải "Thành" và "Kính" trong khi thực hiện Lễ. Ông nói: "Ngày nay người ta gọi nuôi nấng săn sóc cha mẹ là thờ cha mẹ, nhưng đối với chó và ngựa người ta cũng phải nuôi nấng chăm sóc nó. Nếu như đối với cha mẹ mà không kính thì sự chăm sóc đối với cha mẹ có khác gì đối với việc săn sóc nuôi nấng chó ngựa?" [ 7, tr 30]. Đây là điểm mà nhà giáo dục cần vận dụng trong quá trình giáo dục ý thức đạo đức cho học sinh bởi hiện nay không ít học sinh khi thực hiện lễ mà thiếu sự thành kính.

"Nhân" và "lễ" là hạt nhân của tư tưởng đạo đức của Khổng Tử. "Từ Nhân và Lễ các nhà nho đã suy diễn ra cả một hệ thống các khái niệm đạo đức như nghĩa, tín, trung, hiếu, tiết... Các khái niệm đó khi được vận dụng đúng đắn sẽ tạo ra cảm hứng trách nhiệm của con người, khiến cho con người có mục đích sống rõ ràng và trở nên hữu ích cho cuộc sống" [ 6, tr 33]. Điều đó cho thấy việc vận dụng những tư tưởng đạo đức của Khổng Tử vào công tác giáo dục đạo đức cho học sinh hiện nay vẫn có ý nghĩa thiết thực.                                           

Trong một cuộc nói chuyện với các học trò Khổng Tử đã nói: Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả. Về điều này, Tăng Tử - một học trò của Khổng Tử cho rằng: "Đạo của Khổng Tử là "trung thứ". "Trung" ở đây là làm hết sức mình, còn "thứ" là suy từ lòng mình ra mà biết lòng người", mình không muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó. "Trung thứ" là sống đúng với mình và mang cái đó ứng xử tốt với người, coi người như mình, "điều gì mà mình không muốn thì cũng đừng đem áp dụng cho người khác" (Kỷ sở bất dục, vật thị ư nhân - Nhan Uyên). "Mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt" (Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân - Ung dã).  "Nhân" có thể hiểu là "trung thứ", tức là đạo đối với người, nhưng cũng là đạo đối với mình. Đối với mình phải trong sạch, không nghĩ và làm điều xấu, điều ác, phải giữ đúng lễ và vươn lên không ngừng. Ở đây, nhà giáo dục có thể vận dụng những tư tưởng này để giúp cho học sinh hình thành ý thức đạo đức, quan niệm sống và hành vi ứng xử đúng trong mối quan hệ với bạn bè và những người xung quanh. Khổng Tử cho rằng: "Ý thức đạo đức là đặc tính được quy định cho con người. Cảm nhận được tình cảm tự nhiên của những người thân yêu gần gũi với chúng ta, đó là sự diễn tả cao nhất của ý thức đạo đức. Ý thức về sự công bình (hay còn gọi là sự đúng mực) là nhận thức được điều gì đúng và thích hợp..."[8, tr 439].

Tuy nhiên, để học sinh ý thức được điều đó trong môi trường giáo dục hiện nay không phải là điều đơn giản, bởi "điều đặc biệt đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân vì tương lai của bản thân, đất nước..." [Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ II BCHTW khóa VIII, Hà Nội, NXB CTQG, 1997].  Vì vậy mà Đảng ta khẳng định: "Tăng cường giáo dục công dân, giáo dục tư tưởng đạo đức, lòng yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, đưa việc giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh vào nhà trường phù hợp với lứa tuổi và từng bậc học...".  Đối với mục tiêu giáo dục hiện nay, để hình thành con người có ích cho xã hội, vấn đề giáo dục ý thức đạo đức là không thể thiếu trong nội dung giáo dục, nó được lồng ghép trong kỷ luật học đường, trong sinh hoạt nhà trường, trong những bài giáo dục công dân và trong nội dung sách giáo khoa các môn khoa học khác.

Với Khổng Tử, đạo đức là gốc của con người, nói đến con người trước hết là nói đến đạo đức. Đúng như thiên "Học Nhi" - sách Luận ngữ đã viết: "...người quân tử chăm chú vào việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra...". Khổng Tử nói: "Biết (đạo lý) không bằng thích nó, thích nó không bằng vui làm theo nó" và "nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có lỗi mà không sửa đổi đó là những mối lo của ta". Điều đó cho thấy Khổng Tử luôn coi trọng đạo đức, đồng thời dùng tiêu chuẩn đạo đức nghiêm khắc để tu thân, lấy mình làm gương để dẫn dắt quần chúng... Khổng Tử chủ trương "Vi chính dĩ đức" (làm việc chính trị phải lấy đạo đức làm đầu). Ông nói: "...chính sự là làm cho mọi việc ngay thẳng, công minh. Lấy ngay thẳng mà khiến mọi người thì ai dám không ngay thẳng..." (Luận ngữ - Nhan Uyên). Theo ông, người cầm quyền biết nghe đường chính để sửa mình theo đạo thì việc gì cũng thành chính cả. Tuy nhiên, nếu xét ở thời kỳ hiện đại những tư tưởng này của Khổng Tử tuy không hoàn toàn đúng nhưng vẫn gợi lên nhiều điều suy nghĩ. Vận dụng quan điểm của Khổng Tử, bản thân nhà giáo dục cũng vậy, muốn dạy người trước hết phải lấy mình làm gương cho kẻ khác như quan niệm của Hồ Chí Minh: "Giáo dục thế hệ trẻ phải thực hiện phương pháp nêu gương". Ở góc độ này, áp dụng vào công tác giáo dục gọi là phương pháp nêu gương, trên thực tế đã mang lại hiệu quả giáo dục khá cao.

Khổng Tử cũng nhấn mạnh việc học kiến thức, ông cho rằng con người ai cũng có thể qua học tập mà trở thành người tốt và "Yêu thức kiến thức là một cách để có được sự khôn ngoan" [ 8, tr 440]. Ông luôn đề cao việc học và chính ông cũng là tấm gương học tập không mệt mỏi. Khổng Tử khẳng định học tập là hậu thiên, là tiền đề quan trọng của việc giáo dục bởi vì suy cho cùng thì đạo đức, tri thức là do học mà có, muốn trở thành người có ích thì phải học.
Một trong những mục đích của giáo dục theo Khổng Tử là học để ứng dụng cho có ích với đời "học dĩ chí dụng" chứ không phải học để ra làm quan sang bổng hậu. Vì vậy khi có người cầu học hy vọng bổng lộc, Khổng Tử bảo: "Đa văn khuyết nghi, thận ngôn kỳ dư, tắc quả vưu. Đa kiến khuyết đãi, thận hành kỳ dư, tắc quả hối. Ngôn quả vưu, hành quả hối, lộc tại kỳ trung hỹ" (Nghe nhiều có điều còn ngờ thì để khuyết đừng nói, cẩn thận trong lời nói thì ít lỗi, thấy nhiều kinh nghiệm, có điều gì khuyết đãi thì bỏ đấy không làm, cẩn thận mà làm những điều không nguy hại thì chắc ít phải ăn năn. Nói ít lỗi, làm ít ăn năn, lộc ở tại bên trong vậy" (Vi chính, Luận ngữ). Vì học phải có mục đích ích dụng nên Khổng Tử đã dạy rằng: "Tụng thi tam bách, thụ chi dĩ chính bất đạt, sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối, tuy đa diệc hề dĩ vi" (Đọc ba trăm bài Kinh trao cho chính quyền mà không đạt được, sai đi ra ngoài bốn phương mà không biết đối phó được, thế thì học nhiều để mà làm gì?" (Tử lộ, Luận ngữ). Với Khổng tử, học có mục đích hoàn thành nhân cách, giáo dục chú trọng vào việc dưỡng thành nhân cách để mà ứng dụng với đời, cho nên không giới hạn vào sinh hoạt văn chương mà chú trọng vào phương diện sinh hoạt hành vi. Quan điểm này của Không Tử cho đến bây giờ vẫn còn giá trị, sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dạy rằng: "Học đi đôi với hành, giáo dục phải gắn liền với xã hội" và hiện nay chẳng phải chúng ta vẫn luôn đặt ra yêu cầu đối với học sinh "học phải đi đôi với hành" đó hay sao? Tuy nhiên, trên thực tế thì nội dung và cả phương pháp giáo dục của chúng ta vẫn còn nặng về lý thuyết, khâu thực hành, phương diện sinh hoạt hành vi đối với học sinh ở trường phổ thông trung học vẫn còn hạn chế. Những năm gần đây, phương diện sinh hoạt hành vi của học sinh ở trường phổ thông được chú trọng hơn. Trong phân phối chương trình các môn học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tăng cường các tiết học thực hành, ngoại khóa và đưa vào chương trình dạy học các "hoạt động ngoài giờ lên lớp", "hướng nghiệp"... và nhấn mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học: "Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo của người học, nâng cao năng lực tự học của học sinh"... [Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Hội nghị lần thứ II BCHTW khóa VIII, Hà Nội, NXB CTQG, 1997, tr 29].
Khổng Tử có phương pháp dạy học hết sức đúng đắn mà người đời sau vẫn thực hiện khá phổ biến, đó là, học thì phải ôn tập, ôn cũ mà biết mới (Ôn cố nhi tri tân - Vi chính). Ông đặc biệt chú ý gợi mở trí phán đoán độc lập của học trò, không nhồi nhét, áp đặt. Ông chủ trương: "nếu học trò chưa khao khát muốn biết, chưa hổ thẹn vì không biết thì ông chưa dạy. Khi học trò nôn nóng muốn học thì ông lại tùy tính cách từng người mà có phương pháp riêng... cách dạy ấy ngày nay gọi là "gửi thư đúng địa chỉ" [2,tr 34]. Khổng Tử còn cho rằng "Sự học tập phải có suy nghĩ, tư lự chứ không phải chỉ biết thuộc lòng nhớ như vẹt". Ông căn dặn: "Học nhi bất tư tắc võng, tư nhi bất học tắc đãi" (Học mà không tư lự thì mờ ám không hiểu. Nhưng có suy nghĩ mà suy nghĩ viển vông không có mục đích nhất định, không đi đôi với sự học thì nguy khốn) [5, tập 1, tr 262]. Cách giáo dục của ông phối hợp giữa lý thuyết với thực hành "Học nhi thời tập chi" (Học lý thuyết mà luôn thực nghiệm, tập lại như chim non tập bay". Trong giáo dục, Khổng Tử không chú trọng riêng vào trí nhớ mà đòi hỏi phải suy nghĩ, phán đoán, thực hành... Ông muốn mở mang con người toàn diện, thực hiện một nhân cách đầy đủ, cho nên trong cái lục nghệ giáo dục, trừ Lễ, Nhạc ra còn cả phần vận động sinh hoạt như Sạ (tập bắn), Ngự (cởi ngựa), Thư (học viết, vẽ) và Số (học tính toán)... Điều này có khác với mục tiêu giáo dục của chúng ta hiện nay, tuy nhiên so với đương thời thì tư tưởng giáo dục này của Không Tử là hết sức tiến bộ, cho đến nay những tư tưởng này vẫn được người đời ca ngợi và vận dụng những giá trị tích cực của nó trong thực tiễn.

Khổng Tử là nhà giáo dục vĩ đại, tư tưởng giáo dục của ông không những có tác dụng to lớn đối với lịch sử mà cho đến ngày nay vẫn tỏa sáng. Chính từ cuộc đời gương mẫu và đầy trách nhiệm với đời, với người của ông, nhất là cách dạy chữ gắn với dạy người, Khổng Tử đã từng đào tạo được hàng ngàn trò giỏi nổi tiếng trong lịch sử. Một đời Khổng Tử đề cao việc học và chính ông cũng là tấm gương học tập không mệt mỏi. Ông là một người thầy vĩ đại, một nhà sư phạm có đóng góp lớn lao không chỉ cho thời đại của ông mà cho đến bây giờ những tư tưởng giáo dục của ông vẫn luôn được nghiên cứu và vận dụng.     Nghiên cứu học thuyết Khổng Tử, đặc biệt vận dụng một số quan điểm giáo dục của ông vào công tác giáo dục hiện nay ở trường Trung học phổ thông chúng tôi nhận thấy có nhiều điều rất thiết thực. "Ôn cố nhi tri tân", thiết nghĩ trong sự nghiệp giáo dục hiện nay chúng ta nên biết học người xưa đồng thời đổi mới, cách tân theo hướng hiện đại. Đặc biệt, trong sự nghiệp trồng người, phải xác định "nhân" là gốc - như điều Bác Hồ đã từng căn dặn, từ đó xây dựng chiến lược đào tạo con người toàn diện "vừa hồng vừa chuyên".

N.T.H.P

Các tin khác